Thứ Tư, 27 tháng 4, 2022

Tập truyện ngắn NGÀY BÌNH THƯỜNG (xuất bản 9/1974)

Giang Trung Học


Đứa con hay thắc mắc

 

Nó thích trở thành kỹ sư vô tuyến điện. Ngành ấy nó nói - hiện nay nhiều nhà bác học trên thế giới còn đang dày công nghiên cứu để ứng dụng vào cuộc sống trong phạm vi khí quyển và ra ngoài vũ trụ bao la. Tuồng như chính nó rồi đây cũng là một nhà bác học. Chả thế từ ngày còn học lớp Bảy phổ thông, nó đã khá về ga-len, bán dẫn. Nó tự tay làm máy nghe ga-len. Ga-len của nó nghe rõ, không khác mấy cái máy thu thanh hiện đại. Rồi nó bỏ ga-len, làm máy thu thanh bán dẫn. Cái bán dẫn nó làm cũng đủ cả làn sóng, núm vặn, ăng-ten. Khối bạn bè đến nhờ nó chữa hộ máy nghe, gọi nó là kỹ sư vô tuyến điện.

Mẹ nó thích lắm. Bà tán thành con trai mình trở thành kỹ sư. Bà cho rằng, nó có khiếu mặt ấy - nên “phát uy” con ạ! Bà nheo cặp mắt nhìn con, cười hởi lòng hởi dạ, sẵn sàng nhận sự sữa chữa của nó:

-                     Phát huy à?... Phát huy!

Khác mẹ, ông bố không hề hé miệng phản đối hay đồng tình với sở thích của con. Chẳng bao giờ ông nghĩ đến việc yêu ghét cái nghề ấy. Phảng phất, ông muốn nó học bác sĩ, mà là bác sĩ khoa nội. Cha mẹ già, mẹ nó lại ốm đau luôn, trong nhà có người thày thuốc, yên lòng hơn.

Một lần, khi nó đang học lớp Mười, ông bố ướm hỏi:

-                     Con có thích làm thày thuốc không?

Nó bĩu môi:

-                     Con chẳng thích!

-                     Sao?

Nó chẳng cần suy nghĩ lý do vì sao không thích, thoáng nhớ tới câu nói ở đâu, liền bảo:

-                     Thày thuốc sau này nhiều hơn người bệnh, bố ạ!

Ông bố cười, cả nó cũng cười, cho qua chuyện.

Thi xong lớp Mười, nó nói đi làm công nhân, ông bố không tin. Nó gửi đơn xin vào xí nghiệp học nghề, lúc ấy ông mới bừng tỉnh, nhận là sự thật. Ông hỏi:

-                     Con định học nghề gì trong ấy?

Nó đáp luôn:

-                     Nghề gì cũng được.

Nó nhìn trừng trừng vào mắt ông như muốn hỏi: Bố thắc mắc à?

Thực tình ông bố không hiểu vì sao thằng con lại xin đi làm thợ. Ông cho đấy là thứ bệnh nhẹ dạ của tuổi trẻ. Thằng con ngực đeo huy hiệu Đoàn thật đấy, song trước mắt ông, vẫn chỉ là đứa trẻ khờ khạo. (Có phải không ít các bậc cha mẹ thường nhìn con bằng cặp mắt ấy?)

Biết tin, bà mẹ hết mực can ngăn. Nó chẳng nghe. Bà ngờ con bà bị bạn bè lôi cuốn. Song bà chẳng biết rõ ai đã lôi cuốn nó. Mọi bực tức bà dồn cả vào ông. Ông ngớ người:

-                     Ô hay… Ô hay !... Bà rõ thật!

Chẳng có ai lôi cuốn con bà. Nó đi làm thợ là tự nó. Có người nói: Đấy là sự lãng mạn của tuổi trẻ trong chế độ ta! Ông bố không hiểu nghĩa chữ “lãng mạn” là gì, nhưng chẳng vì vậy ông coi con mình đã làm một điều sai trái.

-                     Bà đừng có trách tôi không biết dạy con. Nó thử đàng điếm mất dạy xem, tôi có giần cho một trận nên thân không nào?

*          *          *

    -     Mày ngu lắm ! Kỹ thuật đã đề ra tất phải có nguyên nhân của nó. Mày đã làm sai lại còn già mồm cãi bửa!

Sẵn đống củi lò ở bên, thuận tay ông rút một thanh phết vào đít Sự. Sự chạy bắn ra mấy bước, rồi quay lại nhìn cái lò đúc gang và nhìn người bố. Dáng đứng hiên ngang gần như ngang tàng của Sự khiến ông càng điên lên, quát:

-                     Thật mày hỏi hay mày muốn nạt tao? Từ lâu tao đã bảo thẳng chúng mày, tao chỉ biết làm, và làm là được. Chứ tao không biết nói. Tao không làm thợ nói. Không nhà máy nào, xí nghiệp nào đào tạo thợ nói. Nên tao không thể giải thích hết những câu hỏi “Tại sao?”, “Để làm gì?”, những “Nguồn gốc”, “Nguyên nhân” chúng mày đưa ra. Có thật chúng mày muốn nạt tao thì bảo thẳng?

Mặt người bố đỏ bừng bừng, nhìn chằm chằm vào con, cứ như mọi điều sai hỏng ở cái lò đúc kia đều do Sự gây ra cả. Sự im không lý sự nữa. Không đứa nào dám đua nhau hỏi ông như căn vặn nữa. Ông xắn cao tay áo nhảy vào sửa chữa lò. Tan họp - ông nghĩ - giá mình không về thẳng đây, chậm vài tiếng nữa, chúng nó làm hỏng cả một lò gang. Hỏng một lò, thiệt hại không ít!

Sự chưa hết ấm ức. Đánh mình là ông cụ sai. Nhưng thôi, cái sai ấy là sai của người làm bố, chứ không thuộc về… ông tổ trưởng đúc…

Sự chưa kịp suy nghĩ thêm thì còi báo động rú lên cùng giọng nói lanh lảnh: “Máy bay địch cách Hà Nội ba mươi cây số!”. Tiếng còi báo động át mọi tiếng máy ồn ào tại các phân xưởng sản xuất, át cái nóng hầm hập ngoài trời, át cả sự giận dữ ấm ức trong lòng bố con người làm nghề thợ đúc.

                                                   *       *          *

Sự đời thật trái ngược. Cái ngày nào, từng giây, từng giây ông Am lo bọn thằng Sự trơ trơ giữa trận địa trên đỉnh nóc nhà, đối mặt với lũ giặc trời “thần sấm” “con ma”, rút cục chúng nó chẳng sao. Rủi ro lại khoác vào ông. Chùm rốc két chết tiệt từ máy bay địch phóng xuống xí nghiệp, đã làm ông gục ngã khi chưa kịp xuống hầm ẩn nấp. Để chính chúng nó, chính thằng Sự phải đỡ ông dậy và đưa ông vào bệnh viện. Khỏe mạnh đi làm, vui công việc, thoáng cái đã hết ngày hết tháng. Nằm trong bệnh viện, ngày sao dài lê thê. Rỗi, buồn, lắm lúc ông Am cảm mình như phát ốm thêm. Nằm đây, nhất những ngày đầu, lo cho mình thì ít, ông lo cái lò đúc của xí nghiệp thì nhiều. Nghĩ hôm đi họp phụ lão khu phố, suýt hỏng mẻ gang, ông càng bồn chồn. Vắng ông, liệu chúng nó xoay sở ra sao. Cứ nhất nhất theo lời ông đã hướng dẫn mà làm là được. Giá nằm điều trị ngay tại Hà Nội, người ra vào thăm hỏi luôn, ông có thể nhắn gửi kịp thời ý kiến này nọ về cái lò đúc. Nhưng bệnh viện sơ tán xa bốn chục cây số, thời giờ đâu chốc chốc có người lui tới, để ông nhắn nhe. Người khỏe mạnh đi xa được như bọn thằng Sự thì, tất cả đều bận. Bà ấy (tức vợ ông) ốm yếu, chẳng thể thăm nom ông được dễ dàng.

Bà ấy đối với chồng con là nhất, chứ chẳng phải loại người thờ ơ nhạt nhẽo. Từ khi thằng Sự theo ông đi làm, chừng ra bà ấy càng chu đáo. Sáng sáng, nom từ cái xe đạp có chắc, liệu bố con đèo nhau dọc đường có bảo đảm? Bữa ăn hằng ngày, vẫn những món thường lệ, xem ra bà ấy đã khéo tăng hương vị, để bố con ăn ngon miệng hơn. Ý chừng thương con mình vất vả chứ gì? Hay là muốn lôi kéo cánh này chạy theo cái bằng kỹ sư? Thằng Sự muốn cái bằng không khó. Nhưng phải giải thích để bà ấy thông: Giá trị con người không phải nhìn vào cái bằng, mà cốt nhất ở cái đầu. Cái đầu phải chịu khó suy nghĩ tìm tòi. Cái đầu phải biết sai khiến cái chân cái tay làm việc có ích…

Hàng râu mép nhấp nháy, tỏ rõ ông Am đang có niềm vui. Ông vui không riêng sự hài lòng về bà. Ông vừa nhận được thư nữa. Thư thằng Sự gửi. Ừ, lá thư lần này mới đáng kể, đáng nhớ. Bao lần ông đã chán ngấy việc đọc thư con. Thư nào thằng Sự cũng chỉ “Mẹ và chúng con đều khỏe”, “Chúc bố yên tâm điều trị”… Nó có nhắc đến chuyện xí nghiệp thì “Công việc bình thường”. Thế nào là bình thường? Tất cả đều chung chung, chẳng ra thật, chẳng ra giả, chẳng ra động viên, mà cứ như khuấy lộn đầu óc ông vốn đang bối rối càng thêm rối bời. Thư thế thà đừng viết. Viết thế, người đọc chỉ tổ bực mình.

Ông Am thò tay với cặp kính ở đầu giường. Ông ngồi dậy, nghiêng nghiêng mắt dò đọc lại lá thư thằng Sự viết, đã lem nhem bởi mồ hôi ở những ngón tay ông in lên.

“… Do yêu cầu của mặt hàng mới, cái lò cũ không thể bảo đảm khối lượng nước gang cho vật đúc, nên chúng con đã mạnh dạn cơi cao lò. Tiếp đó, chúng con lại mạnh dạn ứng dụng kiểu lò mới. Lò mới cho năng suất cao hơn, chất lượng sản phẩm cũng tốt hơn”.

Kiểu lò mới thế nào nhỉ?

Ông Am đồng ý cái lò cũ lạc hậu rồi. Vốn nó là cái lò mục nát của một nhà tư sản bỏ từ lâu, ông lợi dụng tu sửa lại để kịp đáp ứng tình hình sản xuất. Ông dựng nó chẳng dựa vào sách vở nào, mà dựa cái vốn hơn chục năm trong nghề đúc của ông học được từ thời Pháp thuộc.

Tuy chẳng tận mắt nhìn thấy cái lò đúc mới, nhưng ông Am cứ đồng ý là nó hiện đại hơn, thích mắt hơn, hơn đứt cái lò cũ kỹ ông dựng. Ông tìm lại chỗ thằng Sự nói về ưu điểm của lò mới. Ông đọc đi đọc lại chỗ ấy. Bây giờ thì ông nhớ như in những cái ưu điểm. Ví hàng năm sau có ai sát hạch, ông cũng không quên.

Thằng Sự lại báo tin là, nhờ cái lò mới mà tháng này chúng nó hoàn thành vượt mức kế hoạch cả khối lượng sản phẩm, cả thời gian. Hôm nay là ngày hăm sáu, ông tính - thằng Sự viết thư này ngày hăm ba, sau khi chúng nó hoàn thành kế hoạch. Gần hai năm, từ ngày thành lập tổ lò, chưa bao giờ kế hoạch được hoàn thành sớm như vậy. Ông Am gật gù: Khá! Chúng mày khá lắm! Ông phải viết ngay thư về mừng chúng nó, mừng thằng con ông. À, mà chưa vội. Chiều mai có mấy người ra viện qua Hà Nội, sớm tới ông viết, gửi họ chuyển giúp nhanh hơn.

Ông lại cúi xuống nhìn thư. Dường như ở đấy còn biết bao điều mới lạ, hấp dẫn, ông chưa hiểu và chưa đọc hết. Ông cần nghiền ngẫm kỹ càng. Rồi ông thắc mắc: Không biết chúng nó xây cái lò mới có gặp cản trở gì không. Cản trở? Tất là cản trở. Song chúng nó đã vượt qua mọi cản trở nên mới gặt hái thành công.

Thằng Sự biên thư, một điều khoe “Chúng con đã…” hai điều khoe “Chúng con đã…”. Ông đồng ý công lao là của chung bọn chúng nó. Nhưng ông Am thừa biết phần sức lực đóng góp của thằng Sự lớn lắm. Anh khiêm tốn quá đấy, Sự ạ! Có đúng anh đã khởi xuất vấn đề ứng dụng kiểu lò mới không nào? Anh đừng có giấu tôi. Tôi biết rõ lâu nay anh đã say sưa nghiên cứu sách vở như thế nào. Đầu giường anh có kỳ chẳng thấy tiểu thuyết, mà vốn anh là đứa say tiểu thuyết đệ nhất. Cứ đêm nào cũng thức đến hai ba giờ sáng thì không được đâu, ốm mất con ạ! Lò thành công rồi, thức in ít chứ. Phải nghĩ đến sức khỏe lâu dài một chút. Mày có hứa với bố giữ gìn sức khỏe không? Còn điều này nữa: Mày không được để mẹ phải chờ cơm luôn luôn đấy nhé. Mày đi đâu, bố biết rõ. Tìm thày tìm bạn để học hỏi, cái đó được; nhưng chớ để mẹ mày ca cẩm nghe không? Đừng tưởng nằm đây bố không nắm chắc tin tức ở nhà đâu.

Bức thư! Cái lò! Lúc này chả có gì khiến ông Am hởi lòng hởi dạ hơn. Lúc này tưởng chả có gì làm ông buồn được. Phút chốc ông Am thấy mình khỏe hẳn lên, quên hẳn vết thương mang trên mình. Vậy mà sau nhưng phút vui đến là vui ấy, ông Am đâm buồn. Thế ra thằng Sự đã hơn hẳn ông. Cả bọn trẻ ấy đã ăn đứt ông. Có thực chúng nó đã hơn ông? Ông bóp đầu đờ đẫn… Lý gì mới ngày nào ông dạy nghề chúng nó, bảo ban từng ly từng tí như dạy A - B - C, mà bây giờ chúng nó đã… Lý gì?... Lý gì?... Ông Am tưởng mình đang trong mơ. Nhưng rồi ông bình tĩnh nhận ra. Chuyện cái lò, chuyện thằng Sự, chuyện lũ trẻ hoàn toàn là sự thật; sự thật vừa ngạc nhiên, vừa không ngạc nhiên.

Đang lúc mắt còn hoa, ông Am lại bắt gặp những danh từ kỹ thuật, những ký hiệu rối mù trên trang thư. Ông không nghĩ thằng Sự có ý lòe bố nạt bố, như ngày nào ông nghĩ. Hẳn cu cậu hứng lên mới viết thế. Hứng lên, cu cậu ngoáy lia lịa, nhiều chữ ông đoán không ra. Sự ơi! Mày quên mày đang nói chuyện với bố không có chữ nghĩa à? Tác dụng hoàn nguyên, phản ứng thu nhiệt của C+CO2… là cái quái gì? Thà vất ông vào rừng rậm, ông có thể tìm đường ra; thằng Sự viết thế, ông chịu. Nhưng ông thầm cười, chả giận thằng Sự làm gì. Phải, thằng Sự hay lý sự. Cái lối lý sự hỏi vặn của thằng Sự, cả của bọn trẻ, đã từng làm ông bực bội nhiều lần. Xem ra thằng Sự khá, chúng nó khá. Sách vở, bè bạn, thày thợ, cả cuộc đời như “gà” cho lớp trẻ trả lời những câu hỏi “Tại sao?”

            Ôi! Ông nhớ thằng Sự, không chỉ thằng Sự bây giờ. Ông nhớ thằng Sự cả hồi còn bé, hai mắt nó như có sao. Nó hỏi ông đủ điều: Giời ở đâu hả bố? Tại sao có giời? Và, sông là gì? Nước ở đâu chảy vào sông?... Cũng như khi vào nghề, nó từng lý sự với ông: Tại sao gang phải xếp như thế này, mà không như thế kia?... Tại sao?... Tại sao?... Cái gì nó cũng tại sao?... để làm gì?...

Có chuyện ồn ào ở khu nhà tắm. Ông Am chạy ra. Một người định tự vẫn, do cách nhìn tương lai xám xịt. May mà mọi người kịp cứu anh ta thoát chết. Anh chàng rõ lẩn thẩn. Cứ như cả đất nước này chỉ có anh ta gặp nạn. Nạn nhân chiến tranh đầy bệnh viện, người ta vẫn đùa vui ca hát, tin rằng mình sẽ lành, sẽ khỏe, sẽ lại làm việc học hành như xưa.

Như số đông nạn nhân, cái vết thương không làm ông Am day dứt cho bản thân. Những băn khoăn day dứt, nôn nóng dày vò ông là, mỗi lần nghĩ đến công việc của xí nghiệp, nghĩ đến cái lò đúc, nghĩ đến bọn thằng Sự nghề nghiệp chưa được tinh thông. Nay thì khỏi lo phần chúng nó. Chỉ còn phần ông…

-                     Bố già! Mời bố già vào đây làm ván cờ! - Một thanh niên gọi trong nhà câu lạc bộ.

Ông Am từ chối.

-                     Mai con ra viện rồi, bố không “hữu nghị” với con một ván à?

Ông Am dừng lại:

-                     Ờ, ờ… thì “hữu nghị”!

Cùng lúc có mấy tay trẻ xin nhập cuộc chơi. Được dịp để ông Am khất:

-                     Tối, tớ với mình chơi nhau một chầu kỳ thích, được không?

Nói rồi ông Am vòng ra sau nhà, lên đồi dạo mát. Ông thong thả bước giữa những hàng phi lao rì rào gió. Bóng ông trải dài về phía đằng đông. Khắp đồi, từng tốp bệnh nhân nói cười râm ran, như chẳng có sự gì trên đời này đáng để họ bận tâm.

Vậy sao ông cứ phải bận tâm. Ừ thì trước bề bộn của công việc, vừa phục vụ xây dựng kinh tế, vừa đánh giặc, ông không thể thờ ơ quên lãng. Một nhiệm vụ trọng đại như thế mà quên, hóa cái đầu ông là đầu đất à? Còn với bọn thằng Sự, nay ông rất vui vì chúng nó đã trưởng thành vượt bậc. Thế rồi đầu ông lại xuất hiện cái sự lấn cấn so sánh giữa ông với chúng nó. Có đúng là chúng nó đã hơn ông? Chúng nó hơn, nay mai vết thương lành, ông sẽ làm gì. Ở cái tổ đúc gang có còn chỗ để ông làm việc không? Hay người ta sẽ điều ông đi nơi khác, làm cái việc không đúng nghề ông. Nếu vậy thì số phận con người quả là trớ trêu!

Mà thôi! Sao mình lại nghĩ đến cái điều rắc rối ấy nhỉ? Nghĩ thế chẳng ích lợi gì. Chính mình hằng mong chúng nó làm lụng khá giả cơ mà. Đôi khi quát mắng chúng nó, cũng chỉ vì mình muốn chúng nó bớt lơ là để chú tâm vào công việc. Cớ làm sao?... Rõ mình lẩn thẩn. Lẩn thẩn y như ba tháng trước mình đánh giá sai thằng Sự.

Khi nghe tin thằng Sự được chỉ định làm tổ trưởng, ông Am có thông đâu. Suýt nữa ông đưa thư về kháng nghị Ban giám đốc xí nghiệp. Lá thư viết rồi, ông mà gửi, thì khéo rày rà. Lúc này ông biết ăn nói với thằng Sự thế nào. Ông không tin nó đảm đương nổi công việc của cái tổ lò. Vậy mà nó đã làm được. Thằng Sự không chỉ làm được, xem ra còn nhiều mặt khá hơn ông.

Ông Am vẫn thong thả dạo quanh đồi. Thỉnh thoảng ông dừng chân đưa mắt ngắm gần ngắm xa. Lúa đồng bát ngát. Đồi xanh ngăn ngắt… Thích thật! Song chỉ chốc lát sau ông lại nghĩ về lá thư thằng Sự viết. Không chừng nay mai cái tổ lò còn khối chuyện vui, khiến ông giật mình ngạc nhiên. Biết đâu mai kia do công việc sản xuất đòi hỏi, bọn thằng Sự lại thiết kế ra một kiểu lò thật mới. Việc ấy chúng nó làm nổi lắm chứ. Biết đâu, ngay lá thư sau thằng Sự lại làm bố bất ngờ về sự tiến bộ của chúng nó. Được thế càng hay. Được thế, ông càng mong thư thằng Sự.

Viết cho bố, thư nào thằng Sự cũng dặn ông “yên tâm điều trị”, và “việc ở tổ đúc đã có chúng con”. Nó viết thế là phải thôi. Nhưng nào nó có hiểu rằng, chính lời dặn dò hứa hẹn của nó lại như giục giã ông phải mau mau ra viện. Chưa bao giờ ông Am mong mỏi ngày ra viện như lúc này. Còn nằm mãi đây thì ông lại càng lạc hậu. Nay mai không khéo làm thợ phụ đốt củi lò cũng không xong. Thật chứ bỡn à! Chưa thể trở về, tuy không còn lo công việc ở nhà, song ông đâm nhớ tợn cái tổ lò. Và ông nhớ thằng Sự. Mỗi lần nghĩ về thằng Sự, ông lại nhớ đến những “Tại sao?”, “Để làm gì?” thằng Sự hỏi; thằng Sự khi còn mặc quần thủng đít; thằng Sự học lớp Bảy, lớp Mười; và thằng Sự lãng mạn không học kỹ sư, bác sĩ, lại đi học thợ đúc - nghề ông…

Bỗng ông Am ngẩng cao đầu, chân bước nhanh, đều đều, tay vung mạnh. Ông đi thử một đoạn dài, không mệt. Vết thương lành khá rồi. Ông tủm tỉm, hàng râu mép nhấp nháy.

Càng vui, ông càng mến bọn tổ lò, mến thằng Sự, mến cả thằng Bỉnh có thói xấu hay đọc sách trong giờ làm việc. Chúng nó có bao cái hay, thằng Sự có bao cái hay, nay ông mới biết. Chắc đâu ông biết hết. Làm sao biết hết! Hôm nay, chúng nó và thằng Sự làm thợ đúc; ngày mai, không chừng chúng nó hết thảy đều là kỹ sư. Biết đâu thằng Sự vừa là kỹ sư luyện kim, vừa là kỹ sư vô tuyến điện. Biết đâu thằng Sự còn có bằng bác sĩ? Có phải ông đã lãng mạn? Hai chữ “lãng mạn” ông mới được nghe đồng chí bác sĩ giảng giải cách đây mấy ngày.

Đứa con hay thắc mắc của bố! - lòng ông như reo lên câu ấy. Nay ông đã hiểu vì đâu thắng Sự hay thắc mắc, đôi khi như vặn ông nạt ông. Đành rằng thằng Sự vào đời không khó không khổ như ông, nhưng rõ ràng có nhiều điều thằng Sự muốn hơn ông. Thời buổi bây giờ càng cho phép thằng Sự và bọn trẻ hơn ông. Thằng Sự, chúng nó, lớp người xây dựng thay ông mà!

Ông phải mau mau trở về xí nghiệp, chả nghỉ an dưỡng thêm làm gì. Và ông sẽ hỏi lại thằng Sự, hỏi lại chúng nó: Tại sao cái lò chúng mày xây phải như thế này? Chúng nó sẽ giảng cho ông. Điều gì chưa thông, bắt chước chúng nó, ông sẽ tự tìm hiểu, như chúng nó tìm hiểu. Đừng vội nghĩ là ông đã già. Ừ thì ông già, nhưng chưa cam chịu “an chi” đâu nhé!

Gió nhẹ rung lá cây lao xao trên đầu, tựa hồ phụ họa với những ý nghĩ đến là vui trong ông.

Tháng 7/1969

 

 

 

 

Mây núi(*)

 

Mọi khi, nhận được thư con, bà mẹ khoe ngay. Nhất là khoe với các cô gái xấp xỉ tuổi con trai mình. Chưa cô nào tỏ ý không thích những điều tốt đẹp bà dành cho cậu con trai. Bởi các cô biết bà yêu quý con nhất trần đời. Ở vậy, không đi bước nữa, vì con. Gần sáu mươi tuổi, tham công tiếc việc, cũng vì con. Cả cuộc đời bà vì người con trai ấy. Từ ngày con bà xuống Hà Nội học, tháng tháng anh thư cho mẹ một lần, có khi hai. Thư anh gửi về là niềm vui nhất, vậy sao bà không khoe? Sao bà có thể khư khư giữ niềm vui ấy trong lòng, như một người xấu bụng giấu của không muốn cho ai vay? Nhưng, lần này nhận được thư con, bà mẹ yên lặng.

Gió bấc ù ù từng cơn, phả vào xóm Núi chon von. Gió đập cửa từng nhà. Bà mẹ vặn to ngọn đèn dầu, đọc thư con trai giữa những cơn gió cắt da cắt thịt ấy. Cứ đọc thư con, y như bà nghĩ: Mình sinh ra nó, mình nuôi nó lớn khôn, nhưng nó dạy mình. Không nó, mình không chữ không nghĩa… Khối bà mẹ cứ phải nhờ người đọc mới biết thư con nói gì. Họ, nhiều người còn mạnh chân khỏe tay hơn bà, sung sức hơn bà. Con trai bà, hình như biết có ngày xa nhà, nên khi ở bên, cứ đòi mẹ phải để nó dạy bà học đọc học viết. Mới đầu bà ngượng. Sau nghe xóm giềng khen “Cu Văn yêu mẹ, trả nghĩa mẹ”, bà liền cố học. Nghe con giảng, chốc chốc bà lại nhìn trộm nó. Hai mắt nó sáng, cái trán cao, cái tóc đen. Nó thông minh. Đúng nó thông minh thật. Mỗi năm học lên một lớp. Lớp Chín, rồi lớp Mười. Học lớp Mười xong, nó bảo: “U có cho con đi xa không? U có ở được một mình không?”. Không việc gì u phải ở một mình. Con chỉ một, nhưng cháu thì nhiều. U sẽ ở với chúng nó. Con cứ đi. U bằng lòng con đi. Đi đến nơi nào có trường dạy con giỏi hơn. Hà Nội xa thật, u chưa bao giờ đặt chân đến. Nhưng ngẫm cho cùng, chẳng xa. Đây đến đấy, vừa tàu vừa xe, hai ngày. Con đi, u sẽ có cơ xuôi Hà Nội. U sẽ về Thủ đô thăm con. U sẽ biết dinh Cụ Hồ, Đại học Bách khoa… U chẳng hiểu Bách khoa như con, nhưng vẫn là u hiểu. Trường dạy nhiều nghề, bác sĩ, kỹ sư chứ gì? Không có bác sĩ à? Thì kỹ sư cũng thế! U đã chẳng bảo, u không hiểu Bách khoa như con là gì!

Lần này bà mẹ không đem thư con ra khoe với bất kỳ ai. Chẳng phải vì giá rét giữ chân không cho bà ra khỏi ngõ. Sáng ra, sương chưa tan, bà đã đứng trên thềm nhà nhìn xuống con đường ngoằn ngoèo lưng chừng dốc. Bà mẹ chít lại vành khăn, mặc thêm cái áo bông, xỏ đôi dép cao su mỏng đế, bước ra khỏi nhà. Lát sau, đứa cháu gái dừng ngay chỗ bà vừa đứng, đã không nhìn thấy dáng gầy gầy của bà đâu.

Trời lặng gió. Không có nắng. Từng đám mây núi mỏng tang, bâng khuâng trôi qua những sườn đồi cao thấp lô nhô.

*          *          *

Bà mẹ đi đến nhà cô giáo Từ.

Tối qua, đọc lại thư con, bà không ngủ, không nói chuyện với đứa cháu gái, cũng không đan nốt mấy miếng cót tre. Như cảm thấy mình sắp ốm, bà thu dọn giường chiếu đi nằm. Ngọn đèn dầu vẫn chong chong. Từ quầng sáng yếu ớt ấy, bà lặng lẽ nhìn khắp gian nhà. Chưa bao giờ bà nhìn gian nhà mình ở với đôi mắt như vậy. Bà nhìn như dò tìm những chỗ cột kèo lỏng lẻo, và như cân nhắc xem cái nhà gỗ này còn bền đến bao nhiều năm?

Bức thư bà nhận được chiều qua không nói gì buồn. Sức con bà vẫn khỏe, học hành vẫn tiến bộ. Bằng vào những dòng chữ quen thuộc và thân yêu kia, bà biết con mình rất say mê học hỏi. Chưa bao giờ nó giấu bà điều gì. Có nhức đầu mệt mỏi, nó cũng nói cho bà biết. Tất nhiên, nó không muốn để bà lo. Nên bao giờ cũng ghi thêm mấy chữ, đại thể là: “U bảo phải cho u rõ sức khỏe của con, vì thế con mới nói thật. Vừa qua con hơi mệt. Bây giờ thì con không mệt nữa. Con cố sắp đặt chương trình học tập điều độ hơn, để giữ sức khỏe”.

Rõ ràng bức thư vừa nhận được, con bà toàn nói chuyện vui. Vậy mà, quái lạ sao, bà thấy buồn buồn. Nó bảo: “Tết này con được về nhà một tuần lễ, u ạ. Con sẽ đưa bạn con về, cùng thăm u. Bạn con là cô sinh viên học dưới con một lớp. Con chắc u bằng lòng, nên chưa hỏi u, con đã rủ cô ấy”. Ra thế! Sao anh chắc tôi bằng lòng. Tôi nuông anh từ nhỏ chứ gì. Đành là vậy. Nhưng việc này… Bà mẹ cảm thấy thằng con có điều tự do quá. Song bà đã chẳng cho nó cái quyền ấy là gì. Cũng như, nó nộp đơn thi đại học rồi mới nói với mẹ. Bà có bảo sao đâu. Lại thích là khác. Bà còn tự hào là, nó biết rõ mẹ yếu, song sẵn sàng vì nó, bấm bụng để nó đi xa. Vậy thì chuyện này có gì khác kia chứ?

Lần này nó dẫn bạn về chơi không phải lần đầu. Năm ngoái nghỉ hè, nó dẫn hai đứa bạn cùng về, chả bảo trước với bà câu nào. Bà cũng rất vui. Con bà có bầu có bạn, không nóng ruột xuôi Hà Nội. Nhưng hè ấy, bạn nó là bạn trai. Nay bạn nó là con gái…

Con gái mà xa nhà trong ngày tết? Điều này bà thấy trái lẽ. Nhà ai lại để con gái đi chơi xa ngày tết. Mà lại đi những một tuần lễ. Hay đứa con gái bạn nó không có gia đình. Không có gia đình nghĩa là không cha không mẹ? Dễ con gái Hà Nội mới được tự do vậy? Bà không tin. Người Hà Nội khác người Yên Bái thật, nhưng vẫn là người Việt Nam mình. Bà mẹ thở dài.

Xem thư, bà thấy thằng Văn quý cô bạn gái này. Điều đó khiến bà vừa buồn vừa tủi. Hai đứa quấn quýt nhau, liệu rồi sau này con trai bà có gần gặn mẹ như xưa. Nhưng bà không muốn tự thú nhận mình buồn tủi vì lẽ ấy. Bà cho rằng mình chỉ áy náy về tư cách cô bạn nó. Con bà học đại học, chỉ năm tới năm lui là kỹ sư. Là gì gì thì nó vẫn là đứa con bé bỏng của bà. Con trai vào tuổi nó, dại gái là thường. Một đứa con trai miền ngược, học giỏi, thông minh, nhưng về Hà Nội vẫn là ngờ nghệch. Mà con gái Hà Nội thì nghe đâu khéo lắm. Khéo mà không thật bụng thì chả tốt. Bà cần cô con dâu tốt, không cần khéo quá. Người ta, phàm đã quá khéo là ít có ngay thực. Bà lại thở dài.

Chúng nó lấy nhau, chúng nó sẽ không ở nhà với bà. Không đứa nào ở với bà. Đã là kỹ sư thì đâu nó về với mẹ ở cái vùng đồi núi này. Nghĩ thế, bà nhìn ba gian nhà gỗ thấy rộng hơn hẳn mọi khi.

Sau cái trở mình, bà mẹ nghĩ khác. Bà cho rằng cần phải nghĩ khác. Nghĩ khác cho đúng hơn. Bà không thể bắt con trai phải về ở với mẹ. Khi nó đã được học hành như vậy, nó phải làm việc ở nơi nào cần nó. Thời này không như thời trước. Bà có thể theo nó đến ở một nơi nào khác, như đã theo chồng lên đây. Ở đâu lâu, đấy là quê. Nghĩ được thế rồi, bà vẫn cứ áy náy. Đứa cháu gái đã ngủ yên. Nếu thức, hẳn nó sẽ nghe thây bà nói lên thành tiếng về cái điều mình áy náy: Nhưng còn tư cách cái cô bạn gái của nó?

Bà cố nghĩ sao để chính mình không mang tiếng là người cũ kỹ phong kiến. Con gái thì cũng như con trai, mỗi thời mỗi khác. Bà chỉ có thể nghĩ chung chung như vậy, để bênh cô bạn gái của con trai mình. Còn, hễ bà nghĩ rành rọt thì y như gà vướng tóc.

Bà quay sang trách mình không xuôi Hà Nội từ khi anh con trai mới được nhận vào đại học. Bà đâm oán thằng tàu bay Mỹ. Không có tàu bay Mỹ bắn phá, bà đã xuôi Hà Nội từ mấy năm trước rồi. Thì bà đã biết Hà Nội, biết con gái Hà Nội. Biết nhiều biết ít cũng là biết. Gặp chuyện như trong thư, bà còn có đôi điều để mà cân nhắc, chứ không lù mù như sớm mùa đông ở miền núi này. Bà ước lúc này, bên cạnh có người gần gặn cảm thông được với mình, để mà bộc bạch. Chuyện này bà không thể nói với đứa cháu gái. Nó còn trẻ. Học sinh lớp Tám biết gì. Nói ra, khéo nó lại bênh cô bạn anh nó: Đi chơi ngày tết có gì mà lạ. Cháu cũng thích đi chơi xa ngày tết! Nó bảo thế thì bà còn biết nói gì. Không nói ra được, trong bụng bà càng áy náy.

Lại nghĩ đến câu nói của anh con trai: “Con chắc u sẽ tiếp cô ấy vui vẻ”. Hừ, anh rào đón đây. Anh đã khéo rồi. Như vậy, rõ là anh có tình ý với cô ta. Sao anh lại phải rào đón với mẹ anh? Anh lấy con gái Hà Nội, được. Anh lấy vợ là kỹ sư như anh, cũng được. Già rồi, không làm gì nữa, tôi sẽ đến ở với vợ chồng anh. Nhưng vợ anh liệu có tốt, có yêu thương anh, yêu thương mẹ anh? Hay chỉ vòi chỉ nũng? Nghe đâu con gái Hà Nội là như thế, hoặc gần gần như thế cả, có đúng không?

Không thể về Hà Nội để tận mắt xem xét tường tận con gái Hà Nội, bà mẹ chợt nghĩ ra được một cách. Bà mừng rỡ. Bà yên tâm. Và giấc ngủ đến với bà như đến với một đứa trẻ, mặc gió bấc vẫn đang lồng lên từng cơn, ràn rạt đầy núi đầy đồi.

*          *          *

Cô giáo Từ chưa đi dạy học. Cô đang cho lợn ăn thì bà mẹ đến. Tưởng bà là phụ huynh học sinh, cô giáo vội rửa tay, mời bà vào nhà.

-                     Thưa cụ, cụ có việc gì cần gặp cháu ạ?

-                     Tôi có tí việc định…

Cô giáo rót nước, đặt trước mặt bà mẹ, rồi nhẹ nhàng kéo ghế ngồi bên cạnh. Nhưng cô hơi ngạc nhiên. Bà chưa nói rõ ý định của mình. Bà định nhờ việc gì? Từ xóm Núi đến xóm Hiên, hơn cây số chứ ít đâu. Lại đi từ sáng sớm, giá rét như thế này. Cô giáo chắc bà mẹ có việc gì cần nhờ, song còn e chưa tiện nói.

-                     Thưa cụ, cụ có việc gì cần cháu, cụ cứ cho biết. Nếu giúp được, cháu sẽ xin cố.

Bà mẹ vẫn chưa nói rõ vì sao mình đến đây. Bà hết nhìn giường cô giáo nằm, lại nhìn đến cái tủ nhỏ kê bên cạnh giường. Trên mặt tủ đặt một lọ thủy tinh màu xanh trong, cắm mấy cành hoa đào nở sớm. Bên lọ hoa là tấm ảnh. Vì ngồi hơi xa nên bà không rõ là ảnh cô giáo hay ai. Gian nhà cô giáo ở nom đơn sơ nhưng đẹp. Toàn những thứ thường thường mà đẹp. Cái giường gỗ mộc, đẹp bởi được rải chiếc chiếu hoa. Đẹp nhất là cái gối trắng tinh, thêu hoa nho nhỏ. Và cỗ màn được vắt gọn gàng, cũng trắng tinh như cái gối. Cô giáo rõ cẩn thận, lại khéo chân khéo tay - bà thầm nhận xét.

Không thể im lặng lâu hơn, bà mẹ thấy cẩn phải nói với cô giáo một câu chuyện gì, để nhân đó làm quen lâu dài với cô. Không mất nhiều thì giờ bà tìm ngay ra chuyện; cho dù từ nhà đến đây, bà chưa hề nghĩ cách làm quen với cô như thế nào. Bà mới nghĩ, cần phải giáp mặt cô, chuyện trò với cô, để xem con gái Hà Nội ra sao. Không thể chỉ nghe đứa cháu gái và các bạn nó nói cô giáo tốt là đủ. Cô giáo nào mà chả tốt. Không tốt sao chính phủ lại cho làm thày. Ấy nhưng, nhận thư con trai lần này, bà mẹ không nghĩ về cô giáo dễ dãi như trước nữa.

-                     Chẳng là, tôi định xuôi Hà Nội, bảo em nó tết này về quê ăn tết. Biết cô giáo là người Hà Nội, tôi muốn nhờ cô mách bảo cách tìm đường đến chỗ em nó học.

Cô giáo thở dài nhẹ nhõm. Ra bà cụ chỉ cần có vậy. Và cô vui vẻ nói chuyện Hà Nội, chuyện đường sá với bà. Vừa nghe, bà vừa kín đáo để ý bàn tay cổ tay cô, chiếc áo cô mặc, mái tóc lòa xòa trước trán cô. Trước khi về, bà cảm ơn cô giáo, mời cô đến chơi nhà.

-                     Tôi cũng có đứa cháu học trường cô đấy. Cháu nó cứ khen cô yêu trẻ, tận tình dạy bảo chúng nó.

Cô giáo mỉm cười, tiễn bà mẹ một quãng đường dài.

Gió bấc đã ngưng thổi. Và mây mỏng hiện lên khắp bốn bề.

*          *          *

Để vui lòng bà mẹ, hai hôm sau, nhân ngày nghỉ, cô giáo sang chơi bên xóm Núi. Bà mẹ tiếp cô thật niềm nở, hỏi cô nhiều chuyện. Tết này, cô giáo có về quê ăn tết không. Con gái bây giờ khác trước nhiều. Vì dân quê núi rừng xa xôi, cô giáo dám dời Hà Nội lên tận đây dạy học. Không có những người như cô giáo thì vùng này đâu có trường cấp II, cấp III. Ngày xưa, nội vùng này chỉ có mấy anh học trò lớp Nhất. Theo lớp Nhất mà phải về tận tỉnh trọ học, vất vả lắm.

Cô giáo rất thích bà mẹ. Không chỉ vì cách nói chuyện cởi mở của bà. Cũng không chỉ vì bà tỏ ý cảm thông và mến thương cô. Mà còn vì bà thích biết về Hà Nội, về người Hà Nội.

Nghe cô giáo kể, bà luôn gật gù, tỏ rõ sự chăm chú nghe từng chi tiết. Trước đó, bà không nghĩ Hà Nội cái gì cũng đẹp cũng hay. Thì ra, Hà Nội là Thủ đô nên mọi cái đều phải đẹp phải hay. Đẹp, hay, để mà làm gương cho cả nước noi theo. Vậy là bà càng yên tâm về cậu con trai đang học hành ở Hà Nội. Nó tất sẽ nên người. Nhưng mà, còn cái cô bạn gái nó thế nào? Mong sao cô ta được như cô giáo, chứ đừng là con sâu làm rầu nòi canh. Thằng Văn con bà, dù sao vẫn là đứa trai miền rừng núi mới lớn, làm sao tinh khôn bằng người Hà Nội. Nên chẳng dám chắc nó không mắc lừa kẻ xấu. Để bớt lo, bà liền bạo hỏi cô giáo để hiểu thêm về các cô gái Hà Nội.

-                     Là vì… tôi chẳng dám giấu gì cô, thằng bé nhà tôi nó bảo có bạn gái thân là người Hà Nội. Nên tôi cứ lo lo…

Cô giáo nhìn bà, cười thông cảm và giải thích để bà rõ hơn. Bà tin lời cô, rằng con gái Hà Nội bây giờ có khác con gái Hà Nội ngày trước. Khác nhiều nhiều lắm… Thì cứ xem cô giáo khắc thấy con gái Hà Nội thế nào. Bọn học trò đều mến yêu cô. Ngoài dạy học, cô giáo còn biết chăn lợn tăng gia nữa. Nói năng thì khiêm tốn lễ phép lắm. Còn cái chuyện bảo là con gái Hà Nội đài các, liệu có đúng không? Bà nghĩ, cũng chả nên vì giữ ý giữ tứ mà không dám hỏi cô giáo điều này.

Cô giáo không muốn bà mẹ hiểu sai về con gái Hà Nội - những người cùng lứa tuổi cô. Con gái Hà Nội! Bốn tiếng ấy, đã từng gây bao xa cách giữa cô với đồng bào, lúc cô vừa đến nhận việc. Cô muốn bà mẹ hiểu thế nào là lịch sự văn minh, thế nào là đài các. Và dù đời sống còn thiếu thốn vất vả, vẫn nên cố gắng sao cho nó bớt tẻ nhạt; mà không bận bịu là mấy, cũng chẳng tốn kém tiền bạc. Đó không chỉ là cách sống riêng của các cô gái Hà Nội, còn là cách sống của mọi người Hà Nội. Thấy nét mặt bà mẹ càng nghe càng vui hơn, cô giáo liền bày cho bà cách dùng mực xanh hồ lơ màn, cách cắt cành đào để cắm lọ sao cho tươi lâu ngày. Nhà ở có lọ hoa đỡ trống trải hơn, đỡ lạnh lẽo hơn. Nghe cô giáo nói, bà mẹ nheo mắt cười, đồng ý lắm. Bà cho là, nên như thế. Như thế không phải là đài các. Thì cứ xem cái áo cô giáo mặc, cũng là phin, khéo may nên nom như vải quý lắm. Một lần nữa, trước khi ra về, cô giáo nhắc bà mẹ cách thức đi đường xuôi Hà Nội, tìm đến trường Đại học Bách khoa.

Thế rồi, cả bà mẹ và cô giáo đều không ngờ, sau mấy lần đi lại chuyện trò ấy, nhiều người ở xóm Hiên, xóm Núi đồn rằng, bà có ý dạm cô giáo cho cậu con trai đang học kỹ sư ở Hà Nội. Bà mẹ ra chiều phàn nàn: Sao lại có điều tiếng như thế nhỉ? Cô giáo thì khác. Cô khó chịu thực sự. Càng khó chịu hơn khi cô thấy chỉ còn mươi hôm nữa là tết, mà bà mẹ vẫn cứ quanh quẩn ở nhà. Cô giáo tin là bà mẹ có ý định tìm hiểu cô, để khi cậu con trai về thì giới thiệu. Hóa ra bà cụ lại dối mình? Cô giáo thầm trách bà mẹ. Các em học sinh thì nhìn cô như dò hỏi. Cô đọc thấy trong ánh mắt đứa lớn những tia cười hóm hỉnh, đùa cợt. Cô không muốn các em học sinh hiểu lầm về mình. Bà mẹ Văn có quyền tìm hiểu, thậm chí có quyền hỏi cô làm con dâu. Điều ấy chẳng hại gì đến uy tín của cô. Nhưng ở đây, một số người dân, và cả các em học sinh cấp III biết cô đã có người yêu. Cô quyết định đến nhà bà lần thứ hai. Để bà biết thêm về cô. Cũng là để tránh cho bà phải nhận ở cô một lời từ chối.

-                     Thưa cụ, cụ chưa xuôi Hà Nội ạ?... Cháu sang định nói với cụ việc về Hà Nội thế này tiện hơn. Cụ cứ vào nhà cháu. Thày cháu sẽ bảo các em cháu đưa cụ đến trường Đại học Bách khoa. Cụ chả phải tìm, mất công ra. Tiện thể, cụ đưa giúp cháu phong thư, và nói với thày mẹ cháu, là cháu khỏe mạnh.

Bà mẹ lúng túng. Bà có ngờ đâu cô giáo chu đáo thế. Cũng không ngờ cô giáo có việc nhờ mình. Cô giáo ngỡ mình về Hà Nội thật. Rõ khổ! Không dưng mình đi nói dối, để bây giờ khó xử.

-                     Ấy, tôi cũng định xuôi, nhưng… em nó lại viết thư bảo tết này sẽ về, nên tôi không xuống nữa.

Cô giáo nhíu lông mày. Bà cụ này chả thật thà. Rõ ràng bà cụ có ý tìm hiểu mình cho cậu con trai.

Bà mẹ nhìn rõ đôi lông mày cô giáo cong lên, càng lúng túng. Bà không muốn nói dối cô giáo một tí nào nữa. Nhưng nói thật thì nói thế nào. Rồi, từ bà mà xóm giềng điều kia tiếng nọ. Mai đây thằng Văn lại dẫn cả bạn gái về. Lúc ấy, người ta sẽ hiểu mẹ con bà như thế nào. Và, nếu như cô giáo biết chuyện, cô sẽ giận. Giận bao nhiêu thì cũng chả là quá đáng. Thật khổ! Trăm sự tại mình.

Không thể chịu đựng được hơn, bà mẹ thở dài, bỏ dở câu chuyện, đi lấy nước uống. Cô giáo theo bà xuống bếp, nhanh tay đỡ ấm nước nóng:

-                     Cụ để cháu. Tiếc quá, giá cụ đi Hà Nội, thày mẹ cháu nghe kể về cháu, chắc mừng hơn là bắt được thư.

Cô giáo càng tỏ ý tiếc bao nhiêu, bà càng khổ tâm bấy nhiêu. Mình ngần này tuổi đầu, bà nghĩ - lại đi nói lừa một đứa con gái xa cha mẹ. Mình làm nó mừng hụt đã đành. Dăm hôm nữa, thằng Văn dẫn bạn gái về, xóm giếng tha hồ bàn tán. Cô giáo biết sẽ giận, sẽ tủi thân. Cô giáo giận, mình đành cam chịu. Nhưng vì mình mà cô giáo phải tủi thân thì mình chẳng thể yên lòng.

-                     Tết này cháu không về, nhưng sang năm thế nào cháu cũng phải về. Lúc ấy nếu cụ cần xuôi Hà Nội, cháu sẽ đưa cụ xuôi cùng.

Vì có chủ định, nên không cần bà mẹ hỏi, cô giáo kể rằng, sang năm cô sẽ lấy chồng. Chắc chắn cô sẽ nghỉ phép vào dịp tết. Cô dạy học ở trên này, tết này nữa là ba tết. Bà mẹ đớ người. Thế ra cô giáo đã có nơi dạm hỏi, đã có người yêu. Thế mới càng ngầy ngà. Bà con xóm giềng xì xào chuyện mình định hỏi cô giáo cho thằng Văn, lọt đến tai cô thì sao? Chắc rằng sẽ đến tai cô. Không gan được nữa, đứng giữa sân, bà đặt tay lên vai cô giáo, nói một hồi:

-                     Cô bỏ lỗi cho tôi. Tôi chả có ý định xuôi Hà Nội đâu. Hôm nọ tôi nói với cô là tôi nói dối.

Rồi bà kể lể tình đầu. Con trai bà sắp về ăn tết. Nó rủ cô bạn gái lên đây ăn tết. Bà không hiểu con gái Hà Nội ra sao. Người bảo tốt. Người bảo không biết. Nghe cô giáo là người Hà Nội, bà sang làm quen, có ý xem con gái Hà Nội ăn ở ra sao. Quá lo vì con nên bà nghĩ quẩn. Ở đâu chả có người tốt người xấu. Có điều, bà không ngờ người ta lại đồn thế nọ thế kia. Xin cô giáo biết cho, đừng giận bà. Đấy, sự thể như thế. Bà không có ý định gì xấu cả.

Cô giáo vui lòng nhé !

Bà mẹ dừng lời. Cô giáo vẫn lặng im như có ý chờ bà nói tiếp. Bà giục cô vào nhà và đỡ cái ấm trên tay cô. Cô giáo cười, vui vẻ kể chuyện với bà. Thế ra cô giáo cũng nghe người ta đồn, mà tưởng thật. Thế ra cô giáo đến đây cũng là để nói ý tứ với bà rằng, cô đã có nơi có chốn. Nói xong, cô giáo cầm tay bà mẹ :

-                     Cháu chẳng nghĩ ngợi gì đâu. Cụ không phải bằng vào cháu để xét con gái Hà Nội. Vài hôm nữa chị ấy lên đây, cụ khắc biết. Người tốt, người xấu ở với cụ vài ngày là biết ngay thôi. Giấu thế nào được.

-                     Ồ, giá tôi nghĩ được như cô. Giá hôm nọ tôi cứ hỏi thẳng cô, có phải tốt hơn không. Nhưng thôi… Có thế tôi với cô mới sớm hiểu nhau. Giờ tôi hỏi thật nhá, cô có người yêu mà xa Hà Nội như vậy, liệu có sao không?

-                     Thưa cụ, chẳng có gì đáng ngại cả.

Cô giáo cười thoải mái. Bàn tay cô nắm chặt tay bà mẹ.

-                     Cháu tin anh ấy. Vả lại cháu có ở Hà Nội thì cũng chả gần anh ấy. Anh ấy là hải quân. Mà hải quân lênh đênh ngoài biển quanh năm, cụ ạ.

-                     Thế đấy! Sao cô không tìm đám nào gần gần mà thương có hơn không?

Hỏi xong, bà mẹ bật cười. Cô giáo chưa trả lời, bà mẹ đã thấy ngay cái vô lý trong câu mình nói. Ngay con trai bà đấy, bà dấm cô này cô khác gần đây cho nó, toàn là học sinh lớp Chín lớp Mười, nó chả ưng. Nó đi yêu một cô tít ở Hà Nội. Cái cô ở tít Hà Nội ấy, chắc cũng có nhiều người dạm hỏi không ưng, lại ưng con trai bà, quê tít mãi đây.

*          *          *

Đêm ấy, gió bấc bớt thổi. Trời vẫn lạnh nhưng không còn tê giá nữa. Cô giáo cuộn mình trong chăn, môi phảng phất một nụ cười, nghĩ yêu bà mẹ Văn quá. Chắc cậu con trai bà sẽ tìm được người vợ tốt. Bà mẹ hẳn sẽ vui lòng. À mà, chả biết cô ấy với anh con bà mẹ là thế nào. Bạn hay người yêu. Là gì, điều ấy không can hệ. Chỉ biết tết này mình sẽ làm quen, có thể sẽ thân với hai sinh viên, một quê ở đây - nơi mình dạy học, một quê Hà Nội của mình.

Hà Nội bỗng ùa đến, khiến cô giáo thấy đầu óc thật tỉnh táo. Đó là căn gác nhỏ nơi cô sinh, một góc phố nhà mình, mái trường cô học… Tất cả đều là những kỷ niệm đẹp đẽ, rất gần. Nơi ấy, mỗi ngày có biết bao người Hà Nội ra đi, như cô ra đi. Và, mỗi ngày Hà Nội cũng có biết bao người từ khắp nơi trở về lao động xây dựng. Người đi và kẻ đến, ít nhiều hẳn đều nghĩ mình là NGƯỜI HÀ NỘI! Người Hà Nội, đó không chỉ là một danh hiệu. Nhưng nói thế nào nhỉ?... Có một Người Hà Nội nào thực sự yêu Thủ đô mà không cảm thấy mình cần phải xứng đáng với nó?

Nghĩ xa, nghĩ gần, rồi cô giáo như thể soát xét lại mình…

Cũng đêm ấy, bà mẹ Văn thao thức, nhưng không trằn trọc. Bà nghĩ đến cô bạn gái của con mình. Chỉ mấy ngày nữa thôi, cô ta sẽ ở đây, có thể sẽ ngủ chung với bà, nói đủ chuyện cùng bà; như cô giáo Hà Nội nói chuyện với bà, nắm tay bà. Bà mẹ nghĩ nhiều lắm. Những ý nghĩ làm ấm áp lòng bà như mùa xuân đang đến rất gần. Trong niềm cảm xúc ấm áp ấy, không hiểu sao bà lại nghĩ đến một người con trai không ngồi ở ghế trường đại học, mà đứng trên con tàu giữa sóng biển mênh mông. Bà tưởng như người con trai ấy cũng chính là con bà. Và, bà thấy không cần dò xét gì thêm về cô bạn gái của con trai mình. Hẳn cô ta, từ tính tình đến nết ăn ở, lam làm, chắc cũng như cô giáo xóm Hiên đây.

(*) - Giải Chính thức năm 1970 - Tặng thưởng hằng năm của Chi hội Văn nghệ Hà Nội;

    - Rút trong Tập truyện “Ngày bình thường”, Nxb Lao động, 1974.

 

 

 

 

 

Nỗi niềm của Thắng

(Tâm sự một người bạn)

 

Chúng tôi dừng chân trong một xóm nhỏ bên sông nhiều gió mát. Cùng với tiếng óc ách rất đỗi dịu dàng của sóng nước, giấc ngủ chăm bẵm chúng tôi suốt đêm qua. Giờ đây, chỉ những tay được mệnh danh là “vua ngủ” thì vẫn còn say sưa trong giấc nồng. Cuối chiều nay, chúng tôi sẽ qua phà, sang bờ bên kia. Ở đấy có ô tô đưa chúng tôi đi tiếp chặng đường chót của cuộc hành quân.

Tôi thơ thẩn dời xóm nhỏ ra đê. Bên lùm tre, tôi ngồi lơ đãng ngắm bãi bờ, sông nước. Khi mặt trời, không hiểu do nhờ sức mạnh nào đấy, chọc thủng đám mây xám lơ lửng trên đầu tôi, thì dòng sông bỗng ánh lên như một tấm gương khổng lồ. Đám mây xám khổng lồ kia không còn là nơi ẩn nấp của một cơn giông nữa rồi. Chắc chắn hôm nay đẹp trời!

Tôi châm một trong hai điếu thuóc lá còn lại, thong thả hút. Quanh tôi, không khí như được ướp hơi thơm của khói thuốc. Tôi sẽ còn lặng lẽ ngắm nhìn dòng sông và dãy phố nhỏ bờ bên kia chưa biết đến bao giờ, nếu như không thấy Thắng đi đến chỗ tôi ngồi. Trước khi ra đây, tôi có ý rủ cậu ta đi cùng. Nhưng Thắng đã lẻn đâu từ rất sớm. Nhìn dáng đi uể oải của Thắng, tôi đoán cậu ta có chuyện gì không vui. Thắng vung tay lao mạnh cành tre đang cầm vào búi tre, rồi ngồi xuống cạnh tôi. Tôi mời Thắng điếu thuốc còn lại trong cái hộp gò bằng xác máy bay Mỹ. Thắng lơ đãng đưa điếu thuốc lên môi, còn cặp mắt  thì say sưa ngắm nghía cái hộp. Cứ như cậu ta không phải người đã “đẻ” cái hộp ấy vào những ngày mưa tầm tã bên dải Trường Sơn, để lảng tránh nỗi nôn nóng hành quân ra trận. Lát sau, búng mẩu thuốc lá ra xa, Thắng thủng thẳng hỏi tôi:

-                     Cậu có bận gì không?

Tuy hỏi, nhưng Thắng vẫn dõi nhìn dải khói thuốc yếu ớt bốc lên từ đám cỏ. Hẳn cuộc “ăn mảnh” vừa rồi gặp sự cố, Thắng muốn cầu cứu tôi. Tôi nói trêu:

-                     Nếu mình trả lời là bận, liệu cậu có gạ gẫm mình cùng đi với cậu không?

-                     Mình không gạ gẫm cậu đâu. Cậu có đủ thớ để tự chủ đấy. Ít ra là vì, cậu vẫn nhận được thư của Người Hà Nội… Và đã hiểu thế nào là đánh giáp lá cà với M.113.

Thấy tôi im lặng, Thắng nói tiếp:

-                     Là tớ muốn cậu đi cùng tớ đến đằng kia - cậu ta chỉ tay về phía cây cầu gãy đang được sửa chữa gấp - nơi tớ vừa lang thang ở đấy. Nhưng chớ có nghĩ, tớ cần cậu ra đấy để làm điểm tựa cho tớ thêm sức mạnh nhằm hạ gục một mục tiêu riêng tư. Công trường sẵn con gái thật đấy, song chẳng phải là nơi để tớ, cả cậu nữa, tìm kiếm đối tượng trăm năm.

Tôi nhìn vào mắt Thắng như cố ý dò la:

-                     Vậy đến đấy để làm gì… Tìm người thân à? Hay muốn tham gia lao động?

-                     Lao động giúp anh em thanh niên xung phong, để cây cầu sớm thông xe… Có thể lắm chứ!

-                     Phải đấy. Hôm nay là chủ nhật. Xem ra cậu vẫn nhớ Phong trào lao động chủ nhật xã hội chủ nghĩa. Kể cũng hay! - Tôi cố không để Thắng nhận ra trong giọng nói của mình có ẩn ý trêu chọc - Ý kiến của cậu hay lắm. Đơn vị mình đang nghỉ ngơi. Đêm nay chúng mình lại không phải dùng đến đôi chân. Phải giúp anh - chị - em thanh niên xung phong!...

Tôi nhấn mạnh ba tiếng anh - chị - em”, chứ không nói gọn như Thắng: anh em thanh niên xung phong. Tiếp đó tôi hạ giọng để khỏi mang tiếng đùa dai, hoặc chơi trội; còn để Thắng khoan nhận ra dụng ý của tôi là đang tìm cách phát hiện cái động cơ cậu ta rủ rê tôi đến đấy:

-                     Cậu với mình có nên đề nghị thủ trưởng cho cả đơn vị ra giúp sức sửa chữa cây cầu?

Thắng mỉm cười khác lạ, như để nói với tôi rằng, cậu ta đã đoán được cái trò xiếc gì đó của tôi, nhưng trò xiếc ấy không lừa được Thắng đâu:

-                     Quả là mình có chút động cơ cá nhân đấy. Không thế sao mình chỉ rủ cậu? Không thế, cậu tưởng khi cần mình không biết tìm gặp thủ trưởng để đề nghị như cậu gợi ý à? Mình không ngốc cơ mà. Cậu tin mình không ngốc chứ? Thôi, cậu đi với mình.

Thắng vỗ vai tôi:

-                     Mình cần có cậu!

Bàn tay Thắng đặt lên vai tôi như không có ý buông ra, nếu tôi chưa cùng đi với cậu ta.

*          *          *

Trên đường Thắng hỏi tôi:

-                     Có khi nào cậu gặp một sự may rủi tình cờ, nó làm cho cậu phải khổ sở, hoặc sung sướng chưa? Cậu đừng cho mình dớ dẩn. Những thằng lính như chúng ta, trong cuộc sống lưu động và chiến đấu, thiếu quái gì những chuyện ấy. Cậu nghĩ như vậy chứ gì?

Câu hỏi đột ngột ấy khiến tôi lại nhìn vào mắt Thắng. Và tôi thầm cho rằng, Thắng đã mở đầu câu chuyện thật với tôi. Chuyện trên kia, cậu ta tếu táo cho vui đấy thôi. Tính Thắng thích đùa, nhưng không đùa dai. Cậu ta hay bày trò này trò nọ rất tùy hứng, cốt để làm vui mọi người. Chính vì thế, khi vắng Thắng, mọi người thường cảm thấy thiêu thiếu nhơ nhớ cậu ta.

Tôi cười, không ra nhận, cũng không ra chối. Tôi muốn khơi cho Thắng phải bùng lên, nói với tôi tất cả những điều đang khiến Thắng bồn chồn, hơn là để Thắng lấp lửng. Nhưng tôi lại cũng biết rất rõ rằng, Thắng không phải là người dễ bị khích động. Phải chăng cậu ta đang mắc vào một chuyện gì đấy, một chuyện rất có thể là gay go. Chuyện gì nhỉ? Tôi đâm cũng bồn chồn, cùng với nỗi bồn chồn hiện trên nét mặt của Thắng.

Bom Mỹ trút xuống khá nhiều chung quanh cây cầu bắc qua con sông không rộng lắm. Nhìn những hố bom chi chít hai bên đường dẫn lên cầu, biết ngay bọn giặc lái đã quần thảo cây cầu này cho kỳ gục xuống; mặc dầu nó được đối phương bảo vệ bằng cách nào đi chăng nữa. Nhưng mỗi lần cây cầu gục xuống, rất nhanh chóng, nó lại sừng sững đứng lên, đứng lên như thể tất yếu. Giống như bờ bên kia, hai dãy nhà gạch chạy theo con đường vào cầu, cũng từng chung số phận với cây cầu; nhưng nơi ấy lại vẫn mọc lên những ngôi nhà. Và, người ta vẫn gọi những ngôi nhà tranh tre nứa lá vừa dựng lên kia là phố, vì xưa nó vốn là một dãy phố. Dãy phố ấy, nay không còn là phố, nhưng, trong đầu mọi người, nó vẫn tồn tại như đã từng tồn tại.

Hiện tại, cây cầu đã được lôi lên từ lòng sông. Đầy thương tích, nhưng nó đã được hàn vá và nằm ngay ngắn ngang dòng sông. Công việc sửa chữa đang tiến tới giai đoạn chót: ghép ván và rải sắt mặt cầu, cùng việc tu sửa đoạn đường dẫn vào hai đầu cầu.

Có đến mấy trăm thanh niên nam nữ đang trên công trường. Không khí lao động thật khẩn trương.

Thắng có việc gì ở chốn công trường này? Tôi vừa thầm hỏi thì nghe Thắng nói:

-                     Nhanh thật đấy!... Như vậy là mới hơn nửa tháng, kể từ ngày Ních - xơn phải ký Hiệp định ngừng bắn - tính cậu ta thích rành rọt.

Hẳn cái sự rành rọt liên quan đến Thắng sẽ được giải đáp tại đây?

Nhưng Thắng không dừng chân bên cây cầu, mà đưa tôi thẳng tới bến phà.

Phà vẫn xình xịch nổ máy quá giang, dệt nên mặt sông những lớp sóng sủi đầy bọt, xô dạt vào bờ. Cát mịn như hút lấy bọt sóng, càng lấp lánh dưới ánh mặt trời.

Vừa thấy Thắng và tôi đến, anh thanh niên xung phong vui vẻ gật đầu chào. Vậy mà Thắng khăng khăng với tôi, ở đây không có ai thân quen. Đúng, Thắng không dối. Thắng và mấy anh em ở đây chỉ mới vừa quen nhau không đầy hai tiếng đồng hồ. Nghe Thắng và họ nói chuyện, tôi hiểu thế.

Lúc tôi thơ thẩn tìm chỗ mát dưới lùm tre, ngồi ngắm trời ngắm đất, thì Thắng lang thang ở đây. Cậu ta cũng muốn rủ tôi, song thấy tôi đang ngon giấc ngủ nên thôi. Còn vì sao Thắng tới đây, điều này tôi thấy chẳng cần biết cụ thể làm gì. Có thể nhiều lý do xui khiến cậu ta. Có thể chỉ một. Chẳng hạn: Cậu ta vốn là công nhân, công nhân thích gặp công nhân. Ra đây không gặp bạn bè xưa, thì ngửi mùi xăng dầu quen thuộc chẳng là một cái thú vui?

Tại bến phà, Thắng không gặp ai quen thuộc. Nhưng Thắng đã bất ngờ vấp phải một chuyện khiến cậu ta bàng hoàng. Bàng hoàng hơn cả khi gặp người quen mà mình vốn có lỗi với họ. Điều ấy, sau này Thắng mới kể với tôi.

-                     Vẫn chưa kéo lên à? - Thắng hỏi anh thanh niên xung phong dáng cao cao, với nước da đen đen tai tái.

-                     Sắp! - Anh trả lời Thắng, thân mật như đã là bạn của nhau lâu rồi. - Nó bị cát vùi gần ngập. Cái này hẳn nằm dưới ấy lâu lắm rồi!

Phía trước, một thanh niên khác từ dưới lòng sông ngoi lên, đi lại chỗ chúng tôi. Anh là thợ lặn, vạm vỡ trong chiếc quần đùi xanh bó chặt hai bắp đùi mập mạp. Anh hỏi Thắng cũng rất ư là quen thuộc:

-                     Còn thuốc không, châm cho mình một điếu?

Anh xoa hai bàn tay ướt vào quần, nhưng chiếc quần đang ròng ròng nước. Anh loay hoay không biết nên xoa tay vào đâu cho khô, để cầm điếu thuốc Thắng sắp trao cho mình. Sau hết, anh lột chiếc mũ lặn quẳng xuống cát, xoa luôn tay lên tóc như người gội đầu. Đón điếu thuốc đã được Thắng mồi lửa sẵn, anh rít liền ba hơi, không phả khói. Lại rít rít tiếp luôn mấy hơi nữa. Chừng như cơn thèm đã tạm thỏa mãn, anh kẹp điếu thuốc trong hai ngón tay, khoát một vòng lên trời:

-                     Mẹ kiếp!... Người ta làm ra cái tời cốt để kéo những vật nặng, vậy mà chúng ta lại phải giơ ngực ra làm một cái tời để… kéo một cái tời!

Nói rồi anh phá lên cười. Tôi hiểu tiếng cười của anh chứa đựng phần bực tức nhiều hơn là sự bông pha. Tôi hỏi chen vào một câu, không phải chỉ để làm quen. Tôi thực sự thấy mình cần tò mò muốn biết rõ câu chuyện:

-                     Nhưng tại sao cái tời kia lại ở dưới ấy? Bom ném nó xuống à?

-                     Nghe đâu đấy là một cái tời mới, nhưng là đồ phế phẩm vất đi.

Dứt lời, anh ngồi bệt xuống cát, xoải chân hút thuốc tiếp. Lát sau anh nói:

-                     Chờ tí nữa có thêm người đấu lại, sẽ kéo cái tời ấy lên. Quả nó là đồ vất đi, thì tớ có thể viết thư xạc cho cái nơi đã sản xuất ra nó một trận. Tớ có quyền lắm chứ!

Dáng chừng vẫn chưa đỡ mệt, anh ngả lưng luôn xuống cát, thong thả nói tiếp ý nghĩ của mình:

-                     Các cậu tính, đơn giản như một cái tời mà làm cũng chẳng nên, thử hỏi còn làm gì nữa? Thứ thợ làm ăn lớ xớ vô trách nhiệm ấy, nên để về vườn cho đỡ vướng!

-                     Giá ý kiến của cậu được Chính phủ chấp nhận thì còn khối đứa làm ăn lớ xớ phải về vườn - Anh thanh niên xung phong nói, rồi quay hỏi tôi - Phải thế không, đồng chí bộ đội?

Tôi và anh cùng cười. Anh thợ lặn không cười. Điếu thuốc đã tàn, không đủ để đưa lên môi, nhưng anh vẫn giữ nó trong hai ngón tay. Bằng giọng trầm trầm anh nói:

-                     Lớ xớ à? Có bao giờ cậu lớ xớ với một quả bom nổ chậm không? Không chứ gì? Nếu cậu đã lớ xớ với quả bom nổ chậm thì, cậu không còn là cậu hôm nay.

Thắng và tôi ngồi xuống cát. Tôi thấy thích nghe câu chuyện anh thợ lặn nói, tuy giọng anh chẳng chút dịu dàng, và chuyện này xem ra không hứa hẹn điều gì vui vẻ. Thắng giúi vào bàn tay anh cả một bao Điện Biên. Bàn tay anh từ từ nắm lại, hai mắt vẫn đăm đăm nhìn đám mây trắng lơ lửng tít trên trời cao. Đột nhiên anh gằn giọng:

-                     Lớ xớ!... Lớ xớ!... Tớ biết nhiều thằng lớ xớ, nhưng chưa bao giờ lớ xớ để thiệt hại cho chính chúng. Chúng chỉ lớ xớ để người khác phải vạ lây!

Anh thanh niên xung phong khẽ lắc đầu, nhưng lại cười vui vẻ. Anh nói như để bổ sung cho ý kiến trước của mình:

-                     Một sản phẩm xấu cũng có thể vì vụng tay nghề, hoặc vì một lẽ sơ ý nào đó. Thiếu gì lý do.

Anh thợ lặn ngồi dậy xin Thắng que diêm, lại rít liền ba hơi thuốc, rồi tiếp tục nói:

-                     Nhưng suy cho cùng, đã là thợ ra thợ thì, chẳng ai vin lý do lý trấu để che đậy hoặc cãi trắng cho một kết quả lao động tồi. Đã là thợ ra thợ thì, chẳng ai dám làm một công việc mà biết mình hoàn toàn không đủ sức, cũng chẳng dám làm một công việc mà không hề biết mục đích. Vậy thì, trường hợp cái tời mới phải bỏ đi kia, nếu cái tay trực tiếp làm ra nó bị vạch mặt, hắn sẽ ăn nói thế nào đây? Cả những người lãnh đạo xí nghiệp hắn nữa, họ sẽ lý giải ra sao? Chẳng lẽ họ nhầm lẫn, giao việc cho một thằng mất trí?

Không hề bối rối trước một loạt câu nói có phần bực bội, vừa như lý sự, vừa như chất vấn của anh thợ lặn; anh thanh niên xung phong tủm tỉm cười rồi thủng thẳng nói:

-                     Dù sao thì, khi đánh giá một sản phẩm tốt xấu, chúng ta vẫn phải xem xét mọi nguyên nhân chủ quan, khách quan. Còn đem một người mất trí vào chuyện, e rằng…

Anh thanh niên xung phong toan nói nữa, thì Thắng đột ngột xen vào:

-                     Tất nhiên không ai giao việc cho một thằng mất trí. Giao việc cho một người không đủ sức khỏe, không đủ trình độ tay nghề, đã là chuyện không bình thường. Nhưng làm ăn lớ xớ như cái kiểu các đồng chí nói - Thắng trỏ vào anh thanh niên xung phong - thì tai hại còn hơn cả một thằng mất trí!

-                     Đúng! - Anh thợ lặn bắt ngay câu nói của Thắng - Trường hợp này, chúng ta không thể gọi nó là một thằng mất trí. Chúng ta nên gọi nó là… là… kẻ phá hoại, cho dù nó không chủ định phá hoại.

Thắng gật. Còn tôi, tôi nín lặng, khi thoáng thấy mặt Thắng tái đi. Và Thắng vụt đứng dậy khi anh thợ lặn nói:

-                     Anh em mình kéo ra kia rồi. Nào, ta tiếp tục lôi cái tời bướng bỉnh kia lên thôi!

Thắng và tôi toan cởi quần áo ngoài để cùng vào cuộc, nhưng cả anh thợ lặn và anh thanh niên xung phong đều gạt đi.

-                     Không cần! Đủ người rồi. Các cậu cứ ngồi đây, chờ chúng mình một lát.

Anh thợ lặn nháy mắt:

-                     Cần nhất là các cậu phải để nguyên bao thuốc lá nằm trên bãi cát này, đừng cất nó vào túi.

Bến sông phút chốc ồn ào hẳn lên. Cả chục người túm quanh chiếc dây cáp đã được buộc sẵn vào cái tời. Chính anh thợ lặn đã lặn xuống nước buộc dây, vét bùn, mở lối để cái tời dễ dàng trườn lên bãi cát.

Tiếng hô “Ha…a…i… ba này” vang động mặt nước. Chiếc dây cáp căng ra, làm bật tung những giọt nước sông lóa nắng.

Khi cái tời vừa nhấp nhô mặt nước, hai mắt Thắng mở to, như con nhà chài háo hức cất một mẻ lưới đầy cá. Bỗng vẻ mặt cậu ta sắt lại, như đang nóng lòng chờ đợi một nỗi thử thách ghê gớm sắp xảy ra.

Cái tời nhô dần khỏi mặt nước, mỗi lúc càng gần bãi cát thoải ven bờ. Thấy anh thợ lặn buông dây cáp, xăm xăm chạy về phía cái tời; Thắng cũng định xông tới, nếu không có tôi giữ lại. Đứng lại, song mắt Thắng không rời chiếc tời. Có cái gì liên quan khiến cậu ta nóng lòng sốt ruột?

Khi anh thợ lặn ra hiệu thôi kéo, là lúc cái tời đã nằm đúng chỗ được chọn sẵn. Anh bước đến bên cái tời, cúi nhìn nó cùng với nắm tay liên tiếp đấm vào không khí như hăm đe nó, như thể nó là một con người đã gây nên tội lỗi vậy.

-                     Mày ngoan cố nằm ì nữa đi! Chúng ông mất bao công sức mới lôi được mày lên. Giờ ông khám mày, xem thực mày bệnh tật ra sao? - Anh thợ lặn nói.

Nhưng cái tời là vật vô tri vô giác, nó biết gì đâu. Tôi và Thắng xông đến đúng lúc, nên nghe được câu nói ấy. Tôi tiếp tục để ý từng động tác, từng lời nhận xét của anh. Khác tôi, Thắng sấn đến cái tời. Cứ như cậu ta cũng là chủ trò trong việc phát hiện “sự cố” cái tời. Thái độ không bình thường của Thắng khiến tôi ngờ vực thêm.

Không mất nhiều thời giờ, anh thợ lặn đã hiểu rõ thực trạng cái tời. Anh cất giọng như trút nỗi bực mình vào nó:

-                     Ông biết trước được mày thế này thì mặc xác mày muôn năm nằm đó. Công sức chúng ông thế là công cốc!

Xem chừng cơn bực tức vẫn chưa hả, anh chửi luôn:

-                     Tiên sư đứa nào làm lụng giả dối kiểu này!

Anh chỉ vào những mối hàn bị nứt toác ra, để Thắng cùng chứng kiến:

-                     Chỗ này… chỗ này… Còn cái trục quay này, ốc vít cố định long mẹ nó đi đâu mất rồi? Hả… hả?... Đúng là một cái tời vô dụng!

Và anh nói với mọi người:

-                     Có thể vì thế, cánh công tác trước đã hất nó xuống sông, để hằng ngày khỏi phải nhìn nó cho đỡ bực mình.

Tuy nhiên, vài ba người vẫn còn hy vọng những lời anh thợ lặn vừa thốt lên chỉ là để xả nỗi bực tức nào đấy. Nhưng Thắng đã đứng thẳng, quay về phía họ nói luôn:

-                     Hỏng thật rồi, các đồng chí ạ! Vốn tôi cùng nghề thợ, tôi biết rõ mà.

Liền đó, mọi người tản đi, bỏ mặc chiếc tời nhơ nhớp bùn nằm trơ trơ trên cát.

Tôi, Thắng, anh thợ lặn và anh thanh niên xung phong lại ngồi hút thuốc. Anh thợ lặn hỏi anh thanh niên xung phong bằng giọng đầy phẫn nộ:

-                     Cậu có bực cái thằng thợ hàn nào đấy đã làm ăn bố láo bố lếu như thế không. Chúng ta nên gọi nó là kẻ phá hoại… hay là thằng vô trách nhiệm? Hừ! Nhìn cái tời mà cay. Nhưng cũng chưa cay bằng cánh công tác trước ở đây. Chúng ta chỉ mất công lôi nó lên thôi, chứ trước kia họ từng gánh chịu vô vàn vất vả. Có những lần phải về tận Hà Nội chở mấy cái tời, chặng đường đi về chưa đầy ba trăm cây số, mà họ đã mất cả tuần lễ. Và phải xếp hàng qua phà, phải đi đường vòng, phải chạy đêm… Khi ấy, trời đất đâu có êm ả như bây giờ. Khi ấy, bom Mỹ ngày đêm rình rập vãi xuống bất kỳ chỗ nào trên con đường vận tải Bắc Nam này. Khi ấy, họ phải ăn đói chịu khát. Và, máu họ đã đổ ngay tại bến phà này.

Giọng anh thanh niên xung phong buồn buồn:

-                     Kể cũng lạ! Một cái tời vô dụng như thế, sao người ta dám gửi nó ra đây cho chúng mình. Thật đáng trách cả cái tập thể ở nhà máy sản xuất ra nó nữa!

-                     Đúng! - Anh thợ lặn gật gù, và không thôi phẫn nộ - Nói cụ thể là, đứa kiểm tra cái sản phẩm ấy, chính nó phải là đứa đáng trách nhất. Thế mà cũng gọi là OTK. Nó là đứa vô trách nhiệm hay kẻ đồng lõa với thằng thợ hàn hàn cái tời này?

Thắng vụt đứng lên, cốt để tránh mọi người nhận ra nét mặt cậu ta biến đổi. Môi Thắng mím lại, mắt mở to nhưng đờ đẫn. Sau vài giây lặng thinh hướng về cái tời, Thắng quay lại nhìn thẳng mặt anh thợ lặn và anh thanh niên xung phong:

-                     Các đồng chí có biết đứa nào đã hàn cái tời ấy không? Nó đây! Chính là nó đây! - Thắng chỉ tay vào ngực mình - Các đồng chí thẳng tay trừng phạt nó đi!

Mặt Thắng đỏ gay đỏ gắt, hai mắt như lấp lánh ánh lửa. Anh thợ lặn, anh thanh niên xung phong, và cả tôi đều sửng sốt, ớ ra. Khuôn mặt đỏ gay gắt của Thắng bỗng tái đi, hai giọt nước mắt lăn xuống gò má bóng mồ hôi. Không biết mặt tôi có tái đi không, nhưng mắt tôi thì sầm lại. Im lặng đè lên chúng tôi.

Thắng và tôi đã từng sống những phút im lặng trong công sự, ngửa mặt nhìn bom từ trên máy bay Mỹ hun hút rơi xuống, mà không hề sốt ruột. Vậy mà, giờ đây tôi nóng lòng mong ai đó lên tiếng phá vỡ cái im lặng ghê gớm này.

Thắng, phải, chính Thắng cất giọng trầm trầm kể với mọi người:

-                     Cái tời ấy đã lọt lưới, nhưng không phải lỗi tại OTK! Chính tôi, tôi lập mẹo…

Giọng Thắng đứt quãng, nghẹn lại.

Anh thợ lặn nhìn Thắng, nhìn mọi người, rồi đưa tay lên dụi mắt; như thể lúc anh lặn xuống nước đã bị một hạt cát làm cộm mắt thật khó chịu. Giọng anh dịu xuống ngắt lời Thắng, cốt để Thắng khỏi phải kể lể dài dòng trong lúc đang cơn đau khổ:

-                     Thôi được! Đằng nào thì cũng là việc đã rồi. Cậu yên tâm hành quân theo đơn vị. Còn cái tời, tất nhiên là ở đây chúng mình không đủ sức sửa chữa nó. Nhưng chúng mình sẽ đưa nó đi sửa chữa. Cậu hãy tin rằng cái tời này sẽ được sửa chữa tốt, để nó có ích cho bọn mình. Hiện tại bọn mình đang rất cần có thêm cái tời, để bảo đảm cho kế hoạch tăng chuyến sang sông, đáp ứng nhiệm vụ vận tải Bắc Nam. Tận dụng được nó, lợi hơn hẳn so với việc bỏ tiền mua cái tời mới. Mà vác giấy giới thiệu đi xin mua ngoài kế hoạch một cái tời đâu có dễ dàng gì.

… Lần này không phải anh thợ lặn, mà là anh thanh niên xung phong đưa tay hỏi xin Thắng điếu thuốc lá.

Cùng với tiếng sóng nước nhè nhẹ xô vào bờ, tôi nghe rõ trái tim mình đập đổ hồi.

    *      *          *

Từ lúc xảy ra câu chuyện buồn kia, Thắng thường im lặng. Tôi biết Thắng là người dũng cảm và không thích ai an ủi hoặc tỏ ý thương hại mình. Nhưng nếu tôi cũng nín thinh, có thể Thắng sẽ ngượng và khổ tâm hơn. Tôi hỏi Thắng khi đơn vị đã qua sông, ngồi một dọc dài bên vệ đường chờ ô tô.

-                     Làm thế nào mà cậu cho lọt lưới được cái sản phẩm ấy qua mắt cánh OTK?

Hình như Thắng đã dự tính trả lời những câu tôi hỏi. Cậu ta kể rành rọt, không chút ngập ngừng:

-                     Một cô gái OTK đã trả lại mình cái của khỉ ấy. Không hẳn là mình sợ bị phê bình vì làm ra sản phẩm xấu. Khi ấy tinh thần mình căng lắm, nên không muốn nhận nó về sửa chữa. Lừa một cô gái, khó gì đâu. Nhân lúc cô ta có việc phải dời kho sản phẩm, mình tráo luôn. Nói thật với cậu, đối với mình, cô ấy có nhiều cảm tình. Cô ấy không thể ngờ mình chơi xấu như vậy.

Trăng phía trước từ từ nhô lên. Chúng tôi nhìn rõ mặt nhau dưới ánh trăng mờ tỏ ấy. Thắng nói với tôi, như sợ lát nữa sẽ không thể nào nói được khi tất cả đã ngồi trên xe.

-                     Cậu đừng nghĩ mình là một thằng thợ tồi. Mình không yêu nghề đến mức quên ăn quên ngủ đâu. Cũng không phải là một thằng ghét công việc của mình. Những năm làm thợ, mình đã hàn nhiều mặt hàng. Mình đã hàn và tự tay lắp ráp nhiều cái tời. Những cái tời hay dở tốt xấu, trách nhiệm chính thuộc về mình. Không phải tất cả sản phẩm mình làm ra đều… nói như đồng chí thợ lặn là: vô dụng! Cậu tin điều mình nói không? Cái tời kia, phải, chỉ một cái tời kia vô dụng thôi. Vì sao vậy? Mình hoàn toàn không bất mãn bởi bậc lương thấp. Mình cũng không có điều gì giận dữ với anh em. Ấy vậy mà, có một dạo mình chán lắm. Chán đến nỗi, hễ bắt tay vào việc là cơn giận dữ trong mình nó bùng lên. Mình giận tất cả. Mình muốn vất hết mọi thứ dụng cụ đồ nghề, từ cái máy hàn đến cái que hàn. Mỗi lần chụp kính hàn lên mặt, mình chỉ muốn mọi sự xung quanh tối om mãi.

Thắng ngừng lại, liếm môi. Tôi sợ Thắng không kể nữa. Không hiểu sao tôi lại cho rằng, nếu kể hết câu chuyện, Thắng sẽ đỡ bứt rứt hơn.

-                     Rồi sao nữa? - Tôi hỏi.

-                     Rồi thì sự thể nó như thế đấy. Cậu thấy tận mắt cái tời ấy rồi đấy. Còn vì sao mình chán đến nỗi như vậy ư? Rất là buồn cười. Giá chỉ là buồn cười không thôi thì cũng chẳng hề gì. Nhưng, cái tời kia thì rõ ràng không thể là một chuyện buồn cười được… Dạo ấy, - giọng Thắng thốt nhiên xa vời, hằn học - mình bị người yêu không yêu nữa. Nói nôm na là mình bị “đá”. Cô ta là bạn của cô OTK phân xưởng mình. Chính cô OTK ấy biết rõ mọi chuyện. Biết cả vì sao mình bỗng dưng đổ đốn, làm ăn chẳng ra gì. Chỉ vì cô gái kia bỏ mình, để yêu một người khác. Cô ta yêu một tay, của đáng tội, khá hơn mình về nhiều mặt. Tay ấy cao lớn như người châu Âu, mũi dọc dừa, mắt hơi xanh, bộ tóc uốn sóng một cách tự nhiên, lại là con nhà có học hành. Thế thì, rõ rành tay ấy hơn đứt mình rồi! Bị người yêu bỏ, mình trút nỗi đau khổ ấy vào đâu? Chẳng biết trút vào đâu, ngoài cái công việc mình đang làm; cứ như chính công việc ấy đã đem lại đau khổ cho mình.

-                     Thật là ngẫu nhiên và không may cho cậu bắt gặp lại cái tời ấy ở khúc sông này.

Thắng lắc đầu:

-                     Lúc rủ cậu ra bến phà, mình chỉ mới ngờ ngợ thôi. Ngờ ngợ qua lời kể của anh thanh niên xung phong và anh thợ lặn. Khi mình lang thang ra đấy thì gặp họ đang khiêng cuộn dây cáp, để chuẩn bị kéo cái tời ở dưới sông lên. Vì thế, cậu hỏi, mình lấp lửng. Thật quả là ngẫu nhiên mình gặp lại cái tời. Nhưng mình làm ra nó - một sản phẩm tồi, và cả hành động đánh tráo nó qua con mắt cô gái OTK thì chẳng ngẫu nhiên chút nào. Bây giờ, và đã từ lâu, mình không đau, không tiếc người yêu nữa. Từ lâu rồi, mình đã quên cô ta. Còn cái tời kia thì… Nhiều lần, cả những khi đứng trong chiến hào chờ giặc, mình vẫn tự an ủi, và tự khuyên rằng: Hãy quên cái tời ấy đi, giữ nó trong đầu chỉ tổ mệt. Vậy mà mình không thể vứt nó ra khỏi đầu, như người ta dễ dàng vứt nó xuống dòng sông kia.

                                    *          *          *

Hai tháng sau, trong một chuyến công tác qua khu vực bến phà, nơi xảy ra câu chuyện khiến tôi hiểu rõ tâm sự bạn mình - nỗi niềm của Thắng. May mắn sao, tôi lại gặp anh thợ lặn. Còn anh thanh niên xung phong dáng cao cao với nước da đen đen tai tái, đã theo đơn vị đến nơi khác cần họ hơn. Chúng tôi gặp nhau chầm bập như đôi bạn thân từ rất lâu rồi. Anh thợ lặn kéo tôi ngồi xuống cát, đưa thuốc lá mời tôi.

Khi nói đến Thắng, anh thở dài:

-                     Khổ thân cậu ấy. Giá biết địa chỉ, mình đã viết thư cho cậu ấy.

Thấy tôi tỏ sự ngạc nhiên, anh thợ lặn sôi nổi kể ngay:

-                     Cái tời bỏ đi ấy đâu có phải do cậu ta làm ra. Khi bọn mình đưa nó đến xí nghiệp cơ khí địa phương để sửa chữa, các bố lãnh đạo nhà ta vội vàng thanh minh rằng: Chúng nó đánh phá liên tục, xí nghiệp phải sơ tán lắm nơi, nay đây mai đó, nên không tránh hết sai sót, đã để lọt cái tời không đủ tiêu chuẩn chất lượng trao cho các đồng chí… Mình tròn mắt, hỏi đi hỏi lại ba lần. Thì ra, từ đây trở vào đến P, các đơn vị cầu đường thuần dùng tời của xí nghiệp địa phương. Trên Bộ chỉ cấp bổ sung số ít, trong những trường hợp đột xuất thôi. Với cái tời bọn mình đưa đến sửa chữa, họ đã mau chóng xác định nó là sản phẩm của xí nghiệp địa phương. Bởi một ký hiệu thật đơn giản, được họ khắc vào thân tời. Nên chắc chắn rằng, họ không nhận nhầm.

Anh thợ lặn nheo mắt như để khẳng định câu chuyện mình kể:

-                     Người nhầm chính là Thắng! Nhưng không thể trách Thắng. Là vì những cái tời xuất xứ ở hai nơi đều có chung một bản gốc từ trên Bộ, nên nó giống nhau như lợn con cùng lứa. Nhãn mác sản phẩm cái căn cứ duy nhất giúp Thắng xác định đúng sai thì nó đã bị bom tróc mất rồi. Vậy Thắng có là thần thánh cũng không tránh khỏi nhầm lẫn. Cái tời hỏng, đó là một sự trùng hợp. Hơn nữa, Thắng lại bị cái tời cậu ta đánh tráo trước kia nó ám ảnh.

… Chia tay anh thợ lặn, tôi hình dung lại câu chuyện của Thắng, thấy lại cả nét mặt Thắng tái đi và đỏ dần lên. Khi hành quân, ngồi trên ô tô, dưới ánh trăng, khuôn mặt ấy vẫn còn lộ nỗi dằn vặt.

Có nên thư ngay cho Thắng biết chuyện này?

Tôi thấy không cần phải vội. Tôi sẽ nói chuyện với Thắng khi về. Cái tời vô dụng kia, đành rằng không phải do Thắng làm ra, nhưng cậu ta cũng đã làm ra một cái tời như vậy. Nói cho cùng, chuyện này dù Thắng có biết cũng không giảm được nỗi buồn. Nỗi buồn như Thắng nói, không phải là buồn vì mối tình tan vỡ; mà là nỗi chua xót về một sản phẩm xấu do chính cậu ta làm ra sau mối tình tan vỡ.

Tháng 4/1973

 

 

 

 

Ngày bình thường

 

Sáng nào cũng vậy, khi chuyến xe điện đầu tiên lanh canh qua trước cửa nhà, ông Cự liền thức giấc. Xếp chăn màn, xúc miệng rửa mặt xong, ông dắt xe đạp đi làm. Sáng nay, trước lúc đi, ông đứng giữa nhà dặn chị Đào:

-                     Cho cháu đi bệnh viện khám lại xem. Chừng như thằng bé đỡ hơn mọi ngày, đêm qua không thấy khóc. Mai tôi nghỉ chủ nhật, để cháu ở nhà tôi trông. Ngày kia hãy đưa cháu đi nhà trẻ.

Ra hè nhìn trời, ông quay lại dặn thêm:

-                     Trời lâm thâm mưa đấy. Áo mưa treo cả trong tủ ấy. Cho cháu ra ngoài, nhớ che mưa che gió cẩn thận.

Trên đường đi, lúc rẽ chỗ ngã tư thì xe đạp bị đâm ngang khiến ông chuệnh choạng. Hai chân ông kịp chống xuống đất nên không ngã nhào. Cứ bảo cao vô ích đi! - đang lúc bực mình thì ông thầm nghĩ vậy.

-                     Cái nhà ông này… đi đứng thế à? -  chị con gái vừa đâm vào xe ông gắt lên.

Đã toan mắng cho chị ta một trận, nhưng ông ghìm được, vừa nói vừa cười:

-                     Lỗi không phải tại tôi… hà hà… Mà chị cũng chẳng muốn lỗi, phải không?

Và ông giảng thích luật đường với chị ta. Khi hiểu mình sai, chị ta tíu tít nói:

-                     Cháu xin bác thông cảm cho ạ. Tại cháu vội đến xí nghiệp.

Ông xua tay lắc đầu, nói giọng cười hòa:

-                     Chị còn đứng đấy, chậm bây giờ!

Chị ta lên xe đi. Ông Cự cũng lên xe. Ô, xe ông bị sang vành kêu xèn xẹt. Ông lại phải dừng bên đường chữa chạy. Xong, ông tiếp tục đạp. Dễ cái chị này làm ông chậm hàng chục phút chứ chả ít. Phải nhanh mới kịp giờ làm việc. Ông mải miết đạp để bù vào chỗ thời gian vừa mất. Hai tay ông giữ chắc tay lái, mình cúi rạp về trước, chân đạp tới tấp, bánh xe quay tít.

Đến cổng nhà máy, nhìn đồng hồ phòng thường trực, vẻ mặt ông rạng rỡ quên hẳn mệt.

-                     Bố già được “lời” gì mà phởn thế?

Ông Cự quay nhìn:

-                     Anh Các đấy à? Lợi lộc gì đâu. Đang lo chậm giờ, nhìn đồng hồ thấy sớm thì mừng thôi.

-                     Cứ tưởng bố…

Đi bên, nghe ông Cự thuật lại chuyện, anh Các cứ lắc đầu hoài mà rằng:

-                     Chịu bố già! Chịu bố già!...

Thực ra anh Các “chịu” ông Cự không phải chỉ riêng cái chuyện trên đường.

Đột nhiên ông Cự nói sang chuyện khác:

-                     Mới hôm qua nghe Chính phủ công bố tặng quà đồng bào và chiến sĩ miền Nam, thế mà sáng nay Đài Truyền thanh Hà Nội đã phát tin khắp nơi hưởng ứng rồi. Nhạy thật! Nhà máy mình sao, hả anh Các?... Ấy còn cái chiến dịch “bốn vạn cuốc bàn” cho nông nghiệp, tổng kết chưa nhỉ? À, rồi rồi… Hôm đó tôi đi đâu?... Đi họp đại biểu thành phố thì phải. Cái chiến dịch “bốn vạn cuốc bàn” ấy, khối tay bàn ngang. Chúng nó bảo: Nhà máy cơ khí hiện đại thế này mà lại đi làm cái trò thủ công. Tôi nói: Gia đình các cậu không có cái cuốc thủ công, tớ đố các cậu ngồi đây no bụng, mà cũng chẳng có cái nhà máy cơ khí hiện đại này đâu! Chả là tôi biết các tay ấy đều dân học sinh ngoại thành mới được tuyển dụng vào học nghề ở đây mà.

Anh Các nói ý định của ban lãnh đạo nhà máy về kế hoạch ủng hộ đồng bào miền Nam để trả lời câu ông Cự hỏi. Nghe, ông gật đầu lia lịa, miệng ừ ừ theo. Ông chúa ghét cái tính, khi nghe người ta nói mà lại cắm đầu lặng im; người ta chẳng biết mình có để ý hay không, đồng ý hay không. Tiếp lời anh Các, ông Cự bảo:

-                     Phổ biến kế hoạch giữa giờ sáng nay… Sao không làm đầu giờ để gây khí thế thi đua ngay có hơn không? Tổ mình tranh thủ họp luôn, anh Các ạ. Được chứ? Theo tôi ấy mà, ngoài ba cái thêm: làm thêm giờ, thêm sáng kiến, thêm năng suất, cũng nên đề ra một bớt: bớt lãng phí. Lãng phí nhiều lắm! - ông lắc đầu xót sa - Nhìn chỗ nào cũng thấy lãng phí. Chẳng hạn như bộ quần áo làm việc. Anh có thấy họ sử dụng thế nào không? Biết giữ gìn, một năm còn dùng được. Đằng này, có anh sáu tháng đã vứt. Lĩnh mới họ nới cũ. Họ nói lý rằng, họ không xin cấp phát ngoài tiêu chuẩn quy định… Đây này, anh trông tôi…

Anh Các nhìn ông Cự. Không phải bây giờ anh Các mới biết ông Cự mặc bộ quần áo cũn cỡn, màu bạc phếch, lấm tấm những đốm dầu mỡ; mà còn cả mấy miếng vá to, ở vai, khuỷu tay và đầu gối nữa.

-                     Cốt gọn gàng, sạch sẽ. Chúng mình là công nhân, là người thợ trong giờ làm việc, chứ có phải ông cán bộ ngoại giao đi đón khách quốc tế đâu mà… Thật đấy!

Đứng trước cửa phân xưởng, nhìn bảng thông báo công việc hàng ngày, ông Cự nghiêng nghiêng cặp mắt, khẽ đọc: “… Họp chi bộ bàn kế hoạch phát động thi đua… Phân phối thuốc lá…”. Ông nói với anh Các:

-                     Anh họp chi bộ thì còn họp tổ làm sao? À, anh Các này, nhân thể anh đi họp, tôi muốn phản ảnh với anh điều này nhé. Lãnh đạo cần đặt ngay kế hoạch sửa chữa hầm hào phòng không đi. Mấy trận mưa rào vừa rồi sụt lở khá đấy. Hồi này im im máy bay, “các cụ” bận nhiều công việc, không khéo dễ quên lắm. Là tôi cứ nói trước thế.

Giờ lao động, ai vào việc nấy tấp nập. Tiếng máy chạy rào rào, xình xịch; tiếng búa tay đạp cành cạch chan chát… Tại đây, nếu không có những khẩu súng trường cùng những chiếc mũ rơm bên người, và nếu không để ý đến việc đặt những cỗ máy thưa hơn trước kia, thì không ai nghĩ thành phố này đang có chiến tranh. Ngoài những cái đó, dứt khoát không tìm được dấu vết lo sợ trên mặt những người công nhân.

-                     Bố già!… Hỏng, hỏng bét rồi! - Từ đằng xa, mấy cậu thợ trẻ vừa đi như lao, vừa gọi giật giọng.

Biết họ gọi mình, ông Cự ngẩng đầu, hạ cặp kính trên mắt xuống, đợi. Nhìn những chiếc bulông trên lòng bàn tay họ, ông Cự hiểu ý. Ông cầm xem lần lượt, chiếc nào cũng bị lệch mũ.

-                     Tất cả đều thế này? - Ông nhìn thẳng mặt họ, chờ câu trả lời.

-                     Không bố ạ!

Giương kính lên xem lần nữa, ông hất đầu bảo họ:

-                     Đi!

Đến tận nơi sản xuất, ông bảo Dũng dập thử. Trong mười cái bulông vừa dập thì bảy cái bị hỏng. Ông đứng lặng người, hai bàn tay nắm chặt, hàng lông mày đốm bạc nhíu lại, như muốn bắt từ cái đầu đến cặp mắt ông đều phải suy nghĩ. Các cậu thợ trẻ đứng bên, tự nhiên cũng lặng theo. Sự yên lặng của họ càng như thúc giục ông mau mau giải đáp điều họ ngờ vực.

-                     Chưa hẳn tại khuôn mẫu.

Ông Cự nghiêm nghị nói. Bởi theo ông, hỏng tự khuôn mẫu thì phải hỏng hết.

-                     Sáng kiến ấy của bố vất được rồi đấy! Hí hí…

Thằng Phách nói đấy. Nó biết mình nói bậy nên vội chuồn thẳng, không dám đứng bên ông Cự. Trước nay, cả tổ chẳng ai thèm chấp cái tính hay nói ngang của nó.

Ra hiệu cho Dũng đứng sang bên, ông Cự trực tiếp điều chỉnh lại khuôn mẫu rồi dập thử. Một chiếc: tốt. Chiếc nữa: tốt. Đang đà, ông dập luôn chục chiếc nữa, tất cả đều tốt. Ông cười:

-                     Tớ biết, tớ biết tại sao rồi mà. Hà hà…

Toán thợ trẻ vây lấy ông Cự. Nghe ông giảng giải, các cậu đớ cả người. Té ra, tại các cậu không biết điều chỉnh khuôn mẫu. Đơn giản vậy thôi.

Sau đó, sáng kiến cải tiến làm mũ bulông của ông Cự được ứng dụng rộng rãi trong cả phân xưởng nguội. Cũng từ hôm ấy, ông Cự nghĩ ngay một điều: Còn phải tiếp tục “cải” nữa!

                                     *         *          *

Chiều. Tan tầm.

Ra khỏi phân xưởng, ông Cự tay dong xe đạp, thủng thẳng bước đi. Ông bấm thầm trong bụng: Mỗi người làm thêm hai giờ, riêng tổ nguội mình đã xấp xỉ được ba mươi giờ. Cả nhà máy một ngàn công nhân, như vậy là có thêm hai ngàn giờ. Tức là, nhà máy có hai trăm năm mươi ngày ủng hộ miền Nam, bằng một công nhân làm gần cả năm. A!... Ông thấy ngạc nhiên, mỗi người góp vào một tí hóa lớn đến vậy.

Nói hai giờ, ấy là tính đổ đồng thôi, chứ nhiều người đã làm hơn thế. Như ông Cự đây, mười rưỡi nghỉ giữa ca, ông không về nhà ăn cơm như mọi ngày nữa. Cũng chẳng kịp báo cơm nhà ăn tập thể. Ông chạy luôn sang mậu dịch ăn bên kia đường, làm cái bánh mì. Ăn thế cũng xong. Chẳng khổ. Bởi đời ông đã trải quá nhiều nỗi khổ. Từ một thằng bé lớn lên không biết cha mẹ, sống cảnh đi ở chăn trâu cắt cỏ tại vùng ngoại thành; rồi đến nghề bới rác, bán kem, bán nước rong… khắp phố phường Hà Nội.

Ăn xong, nghỉ ngơi mươi phút, ông bắt tay làm thẳng một mạch cho tới năm rưỡi chiều. Tính ra ông đã làm thêm ít nhất ba giờ. Ba giờ cật lực, chứ không phải làm ăn quấy quá cốt để tính giờ.

Ông Cự vẫn vừa đi vừa nghĩ: Cả tổ ai cũng cố công cố sức xây dựng, riêng cái thằng Phách thì…

Phách là cậu học sinh vừa bước vào nghề, còn mang đầy tính tự do, ham chơi. Nó vốn không gần ông Cự. Bởi ông hay nhắc những cái mà nó cho là vụn vặt. Chẳng hạn: Quần áo thay ra sao không treo cẩn thận? Nó cãi: Đấy là quần áo của tôi cơ mà! Hoặc: Hút thuốc gì mà gớm thế? - Hút tốn tiền tôi chứ tôi có lấy cắp của ai đâu!... Thẳng băng cãi, song nó lại quên béng ấy mà.

Sáng nay Phách lại cãi ông Cự. Cũng từ cái chuyện quần áo nó để không đúng chỗ. Nghe ông Cự chỉ trích, nó nói:

-                     Kệ tôi!

Rồi nhổ toẹt một bãi nước bọt làm ông Cự bực mình. (Khi sự đã hòa mọi người mới rõ, nó nhổ bãi nước bọt không có chủ ý gì, chỉ do tình cờ). Ông Cự không chịu được:

-                     Láo! Thái độ anh thế à? Ở đây không cho phép anh tùy tiện theo ý muốn riêng. Anh không sửa, tôi còn nhắc cho đến khi nào sửa được thì thôi.

Tức thì nó cũng vênh vênh cái mặt dựng hết cả lông măng lên, đáp lại:

-                     Tôi không chịu được cái tính chi li không cần thiết ấy của ông!

Giận như thế, mà chỉ lúc sau đã thấy hai người làm lành với nhau. Bắt đầu từ chuyện thằng Phách đánh hỏng cái mũi khoan. Nó loay hoay tháo mũi khoan mãi chẳng được, tay thì run lẩy bẩy như thẳng chết đói. Đang lúc ấy, ông Cự đi qua. Toan mặc xác nó nhưng mà, đi quá vài bước ông quay phắt lại để bảo ban nó. Mặc nó thì còn hỏng nữa. Thiệt nhà máy thiệt, tập thể thiệt, chứ nó thiệt đâu. Thế mới biết bọn trẻ bây giờ sướng, chứ không như cái thời ông đi học thợ. Thời ông, đánh hỏng cái gì, chủ nó phết cho xưng đít chứ lị!

-                     Trông đây!

Miệng nói, tay ông khẽ đẩy Phách sang bên. Ông vừa làm vừa giảng giải cho nó nghe. Nó nhìn chằm chằm. Sao lúc này nó chăm chú nghe lời ông Cự đến thế. Rất là ngoan nhé!

Hiểu ra, nó hít một hơi thở dài thoải mái rồi nhìn ông, cười hề hề.

-                     Hề hề à? Rõ chưa? Nhắc lại xem nào?

Nó đứng ưỡn ngực, hai tay xuôi thẳng chỉ quần, miệng dõng dạc:

-                     Xoắn khoan bị gãy do cùn, còn do gá lắp không đúng. Đó là hai trường hợp cụ thể làm hỏng mũi khoan. Xin hết!

Nó giật gối thật nghiêm theo kiểu quân sự; rồi lại cười hề hề, nghoẹo cổ, vê mấy đầu ngón tay:

-                     Bố già cho con điếu thuốc.

Ông Cự cho Phách một điếu Tam Đảo. Nó vòi điếu nữa. Ông cho luôn.

Những chuyện xung khắc giữa ông Cự và Phách thường xuyên xảy ra, rồi đại loại cũng lại hòa luôn, na ná như trường hợp vừa rồi. Thế nên cả phân xưởng nguội bảo ông Cự ruột để ngoài da là vậy.

Ra khỏi cổng nhà máy, ông Cự nghiêng xe ngồi thật chững chạc rồi mới đạp. Ông đạp thật từ từ. Ừ,cứ thong thả mà đi, về có muộn tí cũng không sao. Cần nhất cái an toàn. Vội vàng, bị đâm một cái nữa như sáng nay thì chẳng bõ.

Xe ông Cự ra đường cái chính, nhập vào dòng người nghìn nghịt ngược xuôi.

Những tốp xe xích kéo pháo phòng không trên đường gầm rít, tung bụi vàng khè. Từng đoàn, từng đoàn bộ đội hành quân, khom lưng bước dài, dáng đi vồi vội, vẫn không ngớt tiếng nói cười.

Nói chuyện với ông Cự là anh bộ đội đi cùng chiều. Anh ở Khu Bốn ra. Bố anh bị tai nạn chiến tranh, cấp trên cho anh nghỉ phép năm ngày. Nhìn những cái hố cá nhân bên đường, anh bộ đội bảo không thấm vào đâu so với Khu Bốn. Hầm hố trong ấy nhiều và chắc chắn lắm. Vui miệng, ông Cự kể luôn chuyện nhà mình:

-                     Gia đình tôi có ba cái hố cá nhân ngay cạnh nhà ở. Sau ngày sinh thằng cháu ngoại, tôi đào luôn một cái hầm ở trong nhà, ngay dưới gầm giường. Là để tiện cho mẹ con cháu ẩn nấp. Không, tôi làm chắc lắm! Tôi đã nghĩ cả chuyện, nếu chẳng may đổ nhà thì thế nào rồi. Mẹ con cháu nhất định không việc gì, trừ khi nó “cả cái” đúng. Tôi bảo đảm mà. Anh cứ tin tôi đi!

Nghe chuyện ông Cự, anh bộ đội vui quên cả mệt.

Ông Cự còn kể chuyện mình đã làm cái hầm như thế nào. Rằng ông tìm gỗ tìm gạch ra sao; ông sử dụng ngày nghỉ và các buổi tối thế nào cho hợp lý, để không ảnh hưởng đến sức khỏe tuổi già.

-                     Tuổi à? - Ông Cự nói - Sáu mươi nhăm rồi. Nên dù có kế hoạch biện pháp kiểu gì, xong được cái hầm cũng mệt phờ râu, anh ạ. Nhưng tôi nghĩ, mệt chỉ là tạm thời, chẳng sao. Mà ví có sao, tuổi già cũng đáng cũng thuận rồi, phải không anh? Còn như thằng cháu tôi, nó là tất cả, là tương lai của cả hai bên nội ngoại. Bố cháu cũng bộ đội, đóng ở xa, xa lắm. Thế nên, trách nhiệm hậu phương, mình càng phải nghĩ sao cho chu đáo, anh ạ.

Anh bộ đội:

-                     Cụ còn khỏe lắm ạ!

-                     Thế mà mấy năm trước đơn từ mãi mới được ở lại nhà máy tiếp tục làm việc đấy. Không thế đã hưu. Anh bảo, đang lúc mọi người làm không hết việc, mình nghỉ ngơi sao đành. Anh con rể tôi cũng xung phong tái ngũ đấy chứ. Lúc đóng quân gần nhà còn có tin tức, nay bặt hẳn. Chắc cu cậu đi xa. Con gái tôi cũng phụ nữ “ba sẵn sàng”, “ba đảm đang”, công việc cứ liên miên. Gần năm nay sinh cháu, chị ấy cứ muốn tôi nghỉ việc nhà máy, ở nhà. Tôi ở nhà cũng được, nhưng mà… Như thế nó phí đi. Tội gì không gửi cháu vào nhà trẻ, để tôi rảnh tay tham gia việc nước. Như thế tốt hơn. Ấy đấy, lại máy bay địch cách Hà Nội… Suốt ngày, suốt đêm báo động. Mất ăn mất ngủ vì nó. Cứ là phải mau mau tống cổ cả thày lẫn tớ chúng nó ra khỏi đất nước mình, thì rồi mới yên ổn làm ăn, mới nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi được. Tôi nghĩ thế có phải không, đồng chí bộ đội?

                                                 *         *          *

Vừa bước vào nhà, thấy đứa cháu nằm trên giường, mở tròn mắt nhìn bâng quơ, miệng ọ ọe muốn khóc, ông Cự vội xòe hai tay ôm nó.

-                     Thương cháu ông! Cháu ông không ngủ à? Mẹ bỏ cháu ông nằm một mình thế này…

Ông đặt nhẹ lòng bàn tay lên trán nó:

-                     Cháu ông không sốt nữa. Cháu ông khỏi rồi… Ông xi cháu “tồ” nào.

Để cháu gọn trong lòng, hai chân nó chìa ra ngoài, tiếng ông xì xì…

-                     Nói mãi mẹ nó chẳng nới rộng cái cửa quần để cho thằng bé dễ đái. Xì…ì…xì…ì…xì…ì… Đấy, “tồ” rồi mà. Cháu ông ngoan lắm. Ông mà giữ cháu, cả ngày cháu không “tồ dầm” nhỉ!

Tiếp đó, ông Cự ôm cháu đi đi lại lại trong nhà, miệng khẽ hát ru bài ca ông đặt: “Cháu bé là cháu bé ngoan/ Cháu vui nhà trẻ, mẹ làm công nhân/ Thắng Mỹ có cháu góp phần…”.

Thằng bé nghếch mặt nhìn mồm ông hát. Má nó sẽ cọ vào cằm ông, liền quay mặt đi. Người ông hiểu ý, phát nhẹ đít cháu, mắng yêu:

-                     Con mẹ mày, bé tí mà ranh!

Vừa lúc chị Đào tay bưng tay xách cơm tối vào nhà. Nhìn con, ông Cự thấy thương thương. Nom giống hệt bà ấy. Cái dáng đi lúc nào cũng tất tưởi, tất tưởi. Guốc dép đủ cả mà luôn đi chân đất. Lại hai ống quần nữa, chẳng mấy khi thấy nó thả chùng, cứ xếch lên một tí. Rõ ở thủ đô từ bé mà chả hề ăn diện.

Đặt chảo cơm rang và đĩa bánh mì rán xuống bàn ăn, chị Đào nói:

-                     Con không thổi cơm. Ăn tạm thế này.

Người bố vui vẻ:

-                     Tươm chán!

Giọng chị Đào có vẻ trách móc:

-                     Trưa bố đi đâu cũng chả bảo, để ế cả cơm thế này này.

Người bố cười hà hà:

-                     Thì để giờ ăn có sao đâu. Phải không cháu ông?

Ấy là nói vậy thôi, chứ chị Đào thừa biết, bố không về trưa chẳng phải chuyện gì cà kê, chỉ do bận bịu công việc. Xưa nay nhiều lần thế.

Hai bố con vừa ngồi ăn đã thấy tiếng anh Hiển từ xa réo vào:

-                     Bác Cự có nhà không đấy? Đi thôi!

Ông Cự toan “có”, thì chị Đào vội lên tiếng, cốt để người bố ngồi ăn thong thả:

-                     Đang ăn cơm, chốc thày tôi sang.

Thế là ôngg Cự và vội và vàng như chẳng kịp nhai nữa. Những bữa được thong thả, dù chỉ có một mình, ông cũng ngồi lâu lắm. Dù bữa ăn chỉ có đĩa rau muống luộc với mấy quả cà, ông cũng khen lấy khen để. Giờ thì ông chẳng để ý đến ăn. Giá bữa nay có rượu - ông khoái uống chơi - hẳn ông cũng không còn thấy khoái là gì. Nuốt vội vài lưng, ông đứng dậy. Miệng vẫn còn nhai miếng cơm cuối cùng.

Chị Đào lại phải vờ gắt:

-                     Việc dù có quan trọng thì bố cũng cứ thong thả đã nào.

Người bố:

-                     Ô, cái sự không thể thong thả từ từ được ấy chứ lỵ. Đến bách hóa lấy hàng phân phối phải theo lịch cấp phát của người ta. Mình là đại diện, không thể dùn cho ai được. Ví có giao cho chị, chị có nhận không? Thế nên, lại chỉ mấy anh cán bộ khối phố mó tay vào, chứ còn ai nữa. Mấy ngày nay, anh Hiển đã phải đi từng nhà thu tiền rồi. Hàng phân phối cho, mình không chịu đi lấy về, bà con họ phê bình cho ấy chứ.

Chị Đào vẫn cái giọng gắt vờ:

-                     Cái gì mà bố chẳng ôm đồm!

Người bố đưa tay với cái tăm, giọng ngạc nhiên:

-                     Nào ai muốn thế. Tôi cũng muốn nghỉ ngơi, chứ phải không đâu. Nhưng việc mình, mình không làm thì ai làm cho?

-                     Thiên hạ thiếu gì người!

-                     Ô, bà con tín nhiệm, mình phải cố gánh vác chứ. Công việc biết đâu mà san với sẻ. Chỉ có hàng phân phối đây này, mình chia không công bằng, họ sẽ thắc mắc đến ê mặt ra chứ lỵ.

Chị Đào:

-                     Hàng phân phối thì có cái gì to tát đâu. Quanh quẩn lại cái kim sợi chỉ đến mấy que diêm là hết.

-                     Thế mà không có nó cũng gay go. Cả năm mỗi người được mua hai thước vải, thiếu kim chỉ, thử hỏi lấy gì để mà vá víu?

Từ lúc buông bát đũa, ông Cự vẫn đứng bên bàn nước. Ông không ngồi như mọi lúc nhàn rỗi. Uống vội chén nước, ông nói với chị Đào mà như tâm sự với chính mình:

-                     Giờ còn khỏe, mình phải cố gánh vác công việc với bà con. Mai kia hết sức rồi, lúc ấy chỉ còn biết ngồi giương mắt nhìn thiên hạ thôi.

Chụp cái mũ cát lên đầu, ấn cuốn sổ tay vào túi áo, ông đi đến nhà anh Hiển:

-                     Ấy suýt quên - Ra ngoài cửa, ông ngoái đầu lại - Ngày mai tôi bận việc nhà máy rồi. Hưởng ứng phong trào lao động ủng hộ miền Nam. Thằng cháu gửi nhà trẻ vậy. Khám lại thày thuốc bảo sao?... Tốt à? Ngoan để mẹ cháu đi làm nghe không!

Bóng tối đã chụp xuống không biết tự lúc nào. Nhưng qua ánh đèn đường mờ mờ vàng ệch, chị Đào vẫn nhận rõ người bố đi những bước dài thoăn thoắt.

Nói ở nhà trông cháu, bố không nghe - chị Đào ngồi nghĩ một  mình - Bố cứ rằng, gửi cháu nhà trẻ ngoan hơn. Đã đành là ngoan. Nhưng mà… Rõ ràng cụ khổ từ bé. Giờ ở cái tuổi nghỉ ngơi mà vẫn ham công tiếc việc. Suốt ngày suốt tháng tất bật. Vậy mà bố cứ: Bình thường! Bình thường!... Bao giờ cho hết cái thằng Mỹ trên đất nước này?...

Đứa con giãy giãy trong lòng, cắt ngang dòng suy nghĩ về người cha. Chị Đào vỗ ru nó:

-                     Thằng chó con, mai đi nhà trẻ ngoan nhé! Giá còn bà, bà ở nhà trông. Ông già, ông còn bận việc, ông đi suốt ngày.

Tiếp đó chị Đào nghĩ: Phục cái tinh thần của cụ!...

Tháng 5/1968

 

 

 

Người cùng phố*

 

Nghe tiếng gọi tên mình, Tuấn đặt cốc rượu xuống, làu bàu:

-                     Lại sắp có chuyện. Không dưng cô ta đến!

Ngày nào Tuấn cũng bắt gặp cô gái cuối phố ấy đi ngang cửa nhà mình, và anh đã đón đường “tấn công” . Lần thứ nhất nghe Tuấn nói, Thảo - tên cô gái - nhìn anh từ đầu đến chân, cứ như cô giáo nhìn học trò không thuộc bài ấy. Thế là hỏng! Cũng may, Thảo chỉ lắc đầu từ chối: Tôi bận! Sau lần lạnh toát người ấy, Tuấn lấy lại can đảm đón đường Thảo lần thứ hai. Lần này Thảo không nhìn anh, không lắc đầu như lần trước. Hình như Thảo còn đi dịch lại gần anh. Quả tim anh vừa kịp đập nhịp đôi đã nghe Thảo hỏi:

-                     Nếu tôi đem chuyện anh đón đường đón chợ, rủ tôi đi công viên theo kiểu này, báo cáo với anh em thanh niên trong khối phố, thì anh nghĩ sao?

Giá cô ta cứ nhìn Tuấn, để anh lạnh toát cả người như lần trước thì lại hơn. Từ đấy, anh tìm cách lánh mặt Thảo. Từ đấy anh không hay ngồi trên cái gác nhỏ, cửa mở ra mặt đường, hát những bài hát mà bạn bè vẫn khen “bằng Quốc Hương”, “khá hơn Quốc Hương” nữa. Từ đấy anh bắt đầu buồn buồn nghĩ về bản thân mình. Cũng từ đấy anh thầm yêu Thảo hơn là thích trêu ghẹo.

Và, nhiều lần Tuấn bắt gặp Thảo đi ngang qua nhà mình, hễ nghe anh hát là ngẩng đầu lên. Tuấn biết Thảo thích giọng anh, thích những bài anh thích hát. Lại một lần, trong cuộc họp mặt thanh niên khối, Thảo đã nói chuyện với anh. Thảo đề nghị anh tham gia đội văn nghệ.

Đón đường Thảo, Tuấn tin Thảo sẽ “đổ”. Vậy mà…

Rồi từ đấy Thảo hay tìm gặp Tuấn, như để làm cho anh tin rằng: Không bao giờ Thảo “đổ” cả, chỉ có ý nghĩ của anh là “đổ” thôi. Vì vậy gặp Thảo, Tuấn vừa thích vừa không thích.

Lúc này Thảo đến, Tuấn càng không thích. Bởi vì Tuấn đang uống rượu. Anh nhìn chén rượu, chặc lưỡi: Việc gì phải sợ đến nỗi giấu giấu giếm giếm? Anh liếm môi đứng dậy.

-                     Anh Tuấn làm gì mà lâu thế?

Giọng Thảo hồ hởi, tự nhiên, khiến Tuấn phấn chấn hẳn lên, bước ra mở cửa. Vừa vào nhà, Thảo đã cất tiếng hỏi nghe như vẳng xuống mặt đường:

-                     Anh Tuấn uống rượu à?

Tuấn chớp chớp mắt, không nhìn vào chén rượu trên bàn. Anh có cảm giác lúng túng như lần đầu lên sân khấu hát, thật khó cất giọng. Mãi sau anh mới nói được vài lời, không đủ ý để thanh minh:

-                     Rượu mùi… thỉnh thoảng… cũng nhẹ thôi.

Tuấn biết mình say thật rồi, đâu phải chỉ mới ngấm men.

-                     Anh ngồi xuống đi!

Thảo vừa nói, vừa kéo chiếc ghế gần lại cho Tuấn ngồi, rồi thu dọn cốc chai bừa bãi trên mặt bàn.

-                     Anh uống rượu một mình à?

Tuấn gật đầu, quay mặt xuống đường:

-                     Uống một tí cho đỡ buồn.

Thảo nhìn khuôn mặt đỏ dừ của Tuấn, cứ như hỏi: Sao lại buồn? Buồn như thế có nên không?...

Đầu Tuấn càng cúi xuống, tựa hồ anh thấy mình trước một tấm gương trong - nếu như anh ngẩng mặt nhìn Thảo. Trong tấm gương ấy, đôi mắt anh vằn vằn tia máu, mặt mày đỏ gay. Cũng may, Thảo không nhìn anh lâu. Thảo đến bên giá sách ngó ngó nghiêng nghiêng. Giọng Thảo trong trẻo như lúc gọi cửa:

-                     Tuấn bằng lòng cho tôi mượn quyển Chiến Bại nhé!

Không chờ Tuấn trả lời, Thảo nói luôn:

-                     Mấy đứa bạn bảo quyển này hay lắm. Tên sách đặt thế, nhưng nhân vật trong truyện thì rất kiên cường, chẳng bại tí nào phải không?

Hai tay vuốt mặt, Tuấn đứng lên:

-                     Đúng! Nhưng… thôi…

Anh bỏ lửng câu nói, chợt nhận ra quyển nhật ký của mình để trên bàn vẫn mở rộng. Rõ là Thảo đã đọc trang anh vừa viết. Anh viết như người cần có ai đấy để tâm sự. Thảo sẽ nghĩ gì? Nghĩ gì cũng được! Và thế nào Thảo chẳng đem chuyện anh uống rượu say nhè tung ra khắp phố. Thế nào mấy tay đoàn viên quanh đây chẳng kháo nhau về anh. Họ đã gọi anh là danh ca. Rồi đây có thể gọi anh là cao bồi, là gì gì đấy, hoặc ít nhất cũng là thằng nát rượu.

Cầm quyển truyện trong tay, Thảo bảo Tuấn:

-                     Tối nay Tuấn đi họp nhé!

Tuấn gấp cuốn nhật ký lại:

-                     Họp gì thế?

-                     Thanh niên khối.

Không để Tuấn thoái thác, Thảo nói luôn một mạch:

-                     Họp tất cả đoàn viên và thanh niên. Kỳ trước, Chi đoàn ra mắt, Tuấn đã không đến rồi.

-                     Bí thư Chi đoàn là tay nào thế? - Giọng Tuấn hỏi có phần tỉnh hơn.

-                     Không biết!

Tuấn nhìn thẳng vào mắt Thảo và nụ cười phảng phất trên môi anh làm mờ cái vẻ say rượu:

-                     Thế là biết rồi! Có nhiều người như Thảo được cơ quan, nhà máy điều về tham gia xây dựng công tác thanh niên khu phố đấy chứ?

-                     Cũng nhiều… Nhớ tối đến họp nhé!

Mặc Thảo can, Tuấn vẫn tiễn Thảo xuống hết cầu thang.

Trở lại ngồi một mình trong buồng, nom rõ những tán bàng sum suê ngoài cửa sổ, Tuấn thoáng nghĩ đến những ngày buồn, đến những ý nghĩ và việc làm không phải của mình.

*          *          *

Đài Phát thanh vừa dứt mục Tiếng thơ thì nghe tiếng xe đạp lạch cạch ngoài sân, Thảo mỉm cười: Chậm hai giờ. Nhưng cũng cho là đúng hẹn.

Dưới ánh điện, vầng trán cao cao của Tuấn nhẫy mồ hôi. Thảo mở quạt bàn hướng về chỗ Tuấn ngồi.

-                     Đi đường chắc mệt?

-                     Bình thường thì không mệt.

-                     Thế Tuấn gặp điều gì không bình thường?

Bà mẹ Thảo đi làm ca về, thấy con gái đang ngồi nói chuyện với bạn trai, chỉ dừng lại bên bàn uống nước, rồi ra ngồi ngoài vỉa hè hóng gió.

-                     Bà cụ có vẻ chiều Thảo?

-                     Không chiều nhiều đâu. Nhưng Tuấn có gì không bình thường kia chứ? Xe hỏng à?

-                     Xe không hỏng. Nhưng gặp một cái xe hỏng.

Trong câu chuyện Tuấn kể, Thảo cho rằng anh không có ý thêm thắt nhiều chi tiết.

Khi Tuấn đang khom lưng đạp miết, có người đứng cản đường anh. Anh đỗ xe lại. Người đàn ông chỉ vào người ngồi cù rù trên pooc-ba-ga kể lể sự tình.

Chiều nay, vợ ông tự dưng lên cơn đau bụng. Nằm nán mãi không chịu nổi, bà mới đành để ông đèo đi. Đến đây, xe nổ lốp. Đoạn đường còn cách nhà thương hơn chục cây số nữa. Ông muốn phiền xe đạp của Tuấn.

-                     Anh thông cảm cho, chặng đường này chẳng mấy lúc có ô tô.

Trời nhá nhem tối, ông vẫn thấy xe đạp của Tuấn là loại xe tốt; còn xe của ông là cái Phượng hoàng tòng tọc. Để làm tin, ông móc giấy tờ đề nghị Tuấn xem.

Người đàn bà lúc ấy ngồi bên vệ đường ôm bụng rên rỉ.

Tuấn băn khoăn. Tin hay không tin. Đa nghi lúc này có thể làm chết một mạng người. Nhưng nếu đây là một cái “kịch”, Tuấn bị “hê” mất xe thì sao?

Thấy Tuấn có vẻ áy náy, ông vội vàng lục ví đưa nốt cho Tuấn cái đăng ký xe đạp:

-                     Anh đừng sợ. Xe đây đích thực của tôi, không phải là man trá. Ở cảnh anh, tôi cũng phân vân. Nhưng anh hiểu cho… Chúng tôi cần quá!

Tuấn ngồi bên đường với cái xe tòng tọc nổ lốp, hút hết điếu thuốc lá này đến điếu thuốc khác.

Trời tối hẳn. Bóng đêm đã xóa nhòa đường chân trời mung lung, nhưng không xóa được nỗi lo âu trong Tuấn. Tuấn có thể hoàn toàn không lo lắng gì, mà còn vui vẻ về cách xử sự của mình với người đàn ông đèo vợ ốm đến nhà thương cấp cứu, nếu như chiếc xe đạp kia là của Tuấn.

-                     Tôi nói thật đấy, Thảo đừng phật lòng.

-                     Tuấn kể nốt đi.

-                     Hơn hai giờ sau, ông ta trở lại. Ông nắm vai mình lay lay, cảm ơn rối rít. Vợ ông ta vào buồng mổ. Viêm ruột thừa, chứng ấy dễ lành thôi. Nhưng đưa đến nhà thương chậm, có thể khốn. Lúc ấy mình mới thú thật với ông ta là, mình có lo lo, vì chiếc pha-vô-rít không phải của mình. Ông ta táy máy bấm cái chuông kêu kính coong bảo: Người có cái xe đạp nữ tốt thế này mà cho anh mượn, chắc là thân. Mình cười, lắc vai ông tạm biệt rồi nhảy lên xe. Mình về chậm là thế!

-                     Nếu không vì chuyện ấy mà Tuấn về chậm cũng chả đáng trách. Đi thăm các cụ ở nơi sơ tán, có khối việc phải làm giúp.

Tuấn uống một hơi hết cốc nước đun sôi. Thoáng nhớ lần Thảo bắt gặp anh uống rượu; lần ấy cũng đầy một cốc rượu mùi.

Tuấn đứng dậy. Thảo không cho Tuấn về ngay. Thảo muốn bàn với Tuấn tí việc. Việc không kíp lắm, nhưng cần bàn lúc này, và nhất là bàn ở nhà Thảo thì tiện hơn. Không hiểu sao gần đây Thảo ngài ngại đến nhà Tuấn. Khi cần tìm Tuấn, Thảo cũng đứng dưới đường gọi lên. Nào có phải Thảo sợ Tuấn cợt nhả gì đâu. Dạo này Tuấn còn được bà con, anh chị em trong phố khen tiến bộ nữa.

Thảo nói, Tuấn vui vẻ chăm chú nghe. Sáng chủ nhật tới tổ chức làm vệ sinh đường phố: Tuấn gật. Nạo vét hầm hố đề phòng máy bay Mỹ đánh phá ác liệt: Tuấn gật. Các đồng chí lãnh đạo trên khu và nhà máy dặn không được lơ là cảnh giác: Tuấn gật… Riêng đến cái mục tổ chức tuyên truyền rầm rộ, có cả biểu diễn văn nghệ, Tuấn sẽ đơn ca: Tuấn không gật.

-                     Tuấn sợ đứng hát ở ngã ba ngã bảy, giữa ban ngày ban mặt à? Hát để động viên mọi người hăng hái lao động sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, chỉ có lợi thôi. Chắc chắn Tuấn sẽ được bà con hoan hô. Đóng cửa hát trong nhà, chưa đủ để trở thành nghệ sĩ biểu diễn của một đội văn công đâu!

-                     Ai bảo Thảo thế?

-                     Đoán!

-                     Đoán sai!

Để chứng minh rằng cô Bí thư Chi đoàn đoán sai, Tuấn nhận hát. Nhận xong, Tuấn đỏ mặt, đứng dậy xin về. Ra đến cửa, Tuấn ngửa mặt nhìn ánh điện nhòa nhòa trên cao, rồi vụt chìa tay bắt tay Thảo.

Lúc nằm trong màn với mẹ, Thảo nghĩ: Lần đầu tiên mình bắt tay anh ấy. Vừa khi ấy bà mẹ hỏi:

-                     Con cho thằng Tuấn đầu phố mượn xe đạp à?

-                     Vâng.

-                     Nom nó có vẻ càn quấy gì đâu, mà sao một dạo mày lánh nó, sợ nó thế?

Thảo cười, chỉ sợ mẹ nhìn thấy nụ cười rạng rỡ ấy.

-                     Trước kia cơ. Từ dạo nhà máy cử mấy đứa chúng con về sinh hoạt đoàn ở khu phố, có chủ trương cụ thể cho chúng con hoạt động, tình hình nhiều cái khác rồi.

Xưa Thảo đã từng coi Tuấn như một thanh niên hư hỏng. Các đồng chí lãnh đạo Đoàn trên Khu bảo: Đồng chí là công nhân, đồng chí chịu để một thanh niên lớn lên trong chế độ ta, ở ngay cạnh đồng chí hư hỏng à? Các đồng chí ấy nói có lý, nhưng Thảo không tin việc làm có thể thành công. Cải tạo một con người không dễ dàng. Những lần đầu Thảo đến gọi Tuấn đi họp chẳng qua là vì ý thức tổ chức mà phải làm thôi.

Hôm Tuấn đang uống rượu, Thảo đến, vô tình đọc được trang nhật ký của anh chàng. Cô đem chuyện ấy kể tại Hội nghị Giáo dục thanh niên chậm tiến của Thành đoàn. Mọi người nhận định: Tuấn “vực” được. Người này người nọ góp thêm kinh nghiệm giáo dục thanh niên gọi là lạc hậu ở cơ sở mình. Từ đấy, Thảo thấy thinh thích nhận nhiệm vụ gần gũi giúp đỡ Tuấn, như vốn thích được tiện một sản phẩm khó của nhà máy giao cho. Bây giờ Thảo vẫn nhớ gần như nguyên văn đoạn nhật ký của Tuấn :

 “Đóng cửa ở lỳ trong nhà trọn một ngày đêm. Tương lai giày vò mình. Chả lẽ ta không có chút khả năng nào mang lại lợi ích nhỏ nhất cho xã hội, cho cả bản thân ta ?... Xin vào nhà máy làm công nhân hay chờ đợi một năm nữa để thi vào Đại học nhạc? Sẽ làm gì trong một năm ấy? Ăn bám mẹ già như hồi còn học lớp Mười? Nhỡ lại trượt đại học thì sao? Hay cứ thi bừa vào một trường nào đấy, trung cấp hoặc học thợ chẳng hạn… Nhưng ta yêu âm nhạc, ta muốn hát, hát thật hay. Hơn thế nữa, ta còn mong sáng tác được một cái gì… ”.

Trang nhật ký ngắn ngủi, toàn những câu hỏi. Thảo muốn giúp Tuấn trả lời những câu hỏi ấy. Những chuyện trao đổi với Thảo về tương lai đã làm Tuấn vui. Tuấn sẵn sàng tòng quân với hy vọng cuộc sống bộ đội sẽ giúp anh thoát khỏi những dằn vặt quẩn quanh. Và sau đó, từ bộ đội anh sẽ bước vào trường nhạc với tư thế của một chiến sĩ đã làm tròn nhiệm vụ, chiến thắng trở về. Nhưng rồi, việc Tuấn không “đắt” ở phòng tuyển quân đã làm Tuấn ngao ngán. Thất vọng lần ấy, Tuấn lại uống rượu. Lần ấy Tuấn đã to tiếng với Thảo. Lần ấy, Thảo không sợ mang tiếng, đã thực sự “lên lớp” cho Tuấn một hồi:

-                     Cũng may, quân đội không tuyển anh. Trao súng cho anh để mỗi lúc buồn, anh vất súng đi uống rượu thì… thật là hay!

Thảo tưởng Tuấn sẽ không bao giờ đi họp nữa. Tuấn sẽ lánh Thảo, lánh anh chị em trong Chi đoàn, những người Tuấn vừa gần gũi. Thảo sẽ báo cáo thế nào với các đồng chí lãnh đạo, về trách nhiệm của mình với cái anh chàng học sinh có mộng làm nhạc sĩ ấy? Mình sẽ lại đến nhà Tuấn, rủ Tuấn đi họp. Cần thiết, mình có thể xin lỗi về thái độ thiếu bình tĩnh khi góp ý với anh ta. Rồi mình sẽ lại tranh luận với Tuấn, sẽ nói thẳng mọi điều mình cần nói. Nhỡ Tuấn vẫn không đi họp, vẫn xa lánh anh chị em, cứ uống rượu và đàn đúm với những bạn bè xấu thì sao? Giữa lúc Thảo băn khoăn thì Tuấn tìm đến cô.

Nét mặt Tuấn nghiêm nghiêm, hai mắt ngầu đỏ, trông hơi dữ. Tuấn nói với Thảo cứ như nói với người trong tưởng tượng:

-                     Không bao giờ tôi uống rượu nữa. Thật mà! Trong những buổi liên hoan, nếu có rượu, cũng như mọi người, tôi sẽ uống. Tôi uống ít, để không bao giờ say, phải không? Tôi không thể để mình trở thành tên say rượu, nát rượu! Đúng! Không thể!...

Thảo tưởng Tuấn choáng váng hơi men, nhưng không phải. Cả đêm qua Tuấn không ngủ, chỉ vì nghĩ quá nhiều về chuyện đường đời.

-                     Thảo đừng chấp dĩ vãng của tôi, đừng chấp lúc tôi say. Tôi cần Thảo, cần các bạn Thảo. Vì thế tôi đến đây!

Lần ấy, Tuấn nhiều lời hơn là Thảo. Tuấn tâm sự nhiều điều với Thảo. Thảo mừng quá. Nỗi mừng gần như bất ngờ, khiến Thảo buột miệng rủ Tuấn nộp đơn vào nhà máy làm thợ.

-                     Nhà máy đang cần người. Người nhà máy ra trận, người nhà máy đi học trong nước ngoài nước nhiều lắm. Đồng chí Bí thư Đảng ủy nhà máy Thảo bảo: Phải mau chóng đào tạo một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề đông gấp nhiều lần hiện nay. Đội ngũ ấy nhằm chủ yếu vào lớp trẻ. Xây dựng tương lai phải thế!

Tuấn ngồi chống cằm, lặng người nghe Thảo nói. Thỉnh thoảng anh mới khẽ gật đầu, để tỏ rằng, mình vẫn hết sức lắng nghe lời Thảo:

-                     Nhà máy cũng là một mặt trận, Tuấn ạ! Mặt trận kinh tế hết sức quan trọng và càng quan trọng hơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay. Tuấn nghĩ kỹ xem, có nên xung trận đó không?

Tuấn gật.

Ngay hôm sau, Tuấn đưa đơn xin vào nhà máy.

Nay nhớ lại, Thảo vẫn không hiểu sao khi đó mình lại tìm được nhiều lời để phân tích rõ rành như thế. Thảo thấy vui hơn, như vừa đề xuất một sáng kiến có ích, được dư luận nhà máy ca ngợi. Cô càng vui hơn khi nghe bà con dân phố khen Tuấn: Tay ấy dạo này “lên”! Có chữ nghĩa vào nghề có khác. Mà nó vẫn mê âm nhạc, mê hát và hát hay nữa chứ!

Chuyện ấy kể với mẹ sao hết. Có kể hết thì bà cụ mới hiểu vì đâu mình “không sợ thằng Tuấn đầu phố nữa”. Khó quá! Tuy cho là khó nhưng môi Thảo lại tủm tỉm cười. Và nụ cười gọi giấc ngủ đến với cô.

*          *          *

            -    Anh Tuấn này!

-    Thảo bảo gì cơ?

-    Tốt nghiệp lớp học việc, anh không thích bằng học âm nhạc phải không?

-   Ai nói với Thảo thế?

-    Đoán!

-    Lúc nào Thảo cũng đoán. Đã thế lại toàn đoán sai, đoán xấu.

-    Có xấu có tốt chứ!

-    Đâu, chả thấy Thảo đoán tốt về tôi bao giờ.

-    Anh Tuấn nghĩ thế thật đấy à?

Tuấn im, gò lưng đạp xe vượt cái dốc ở đầu phố. Bóng hai người lươn lướt trên mặt đường nhựa nóng bỏng. Bốn bề quanh họ là tiếng ve kêu inh ỏi, là ánh nắng chói chang và hoa phượng giăng hàng đỏ rực phố.

Mới ngày nào Tuấn từ chối ngồi cùng xe với Thảo. Nhà xa, trời lạnh, những ngày đầu đến học việc, Tuấn ngại từng bước đi. Có lần đến xưởng muộn, mặt Tuấn đỏ dừ vì bị phê bình trên bảng đen. Thảo bảo: Tôi sẽ rủ Tuấn cùng đi! Tuấn lắc đầu. Hình như cô ta thương hại mình? Thế rồi, cả lớp thợ học việc ấy tổ chức “nhóm đi làm”. Công việc chính của  nhóm này là gọi nhau, đèo nhau đi làm đúng giờ. (Tất nhiên, người trong nhóm phải ở gần nhau). Mãi sau này Tuấn mới biết Thảo đã đề xướng việc ấy. Từ đó, những tuần đi học trùng với ca Thảo làm việc, đèo Thảo sau xe, Tuấn mới đỡ ngượng.

Lên khỏi dốc, chiếc xe pha-vô-rít bon bon. Tuấn đùa Thảo:

-                     Bà cụ không xót xe à?

Thảo lắc đầu, hỏi lại:

-                     Nếu là xe của anh Tuấn, anh có xót không?

Nào có phải Thảo chỉ dùng xe mình vào việc của “nhóm đi làm”. Thảo đã nhiều lần đưa xe để anh chị em trong phố vận chuyển gạo cho các gia đình neo đơn có con sơ tán ở xa. Và chính Tuấn đã dùng chiếc xe này đi đong gạo, mua bán giúp bà cụ Căn mù lòa, theo sự phân công giúp đỡ của Chi đoàn.

Từ khi học nghề xong, ngày nào Thảo cũng rủ Tuấn đi làm đều đặn. Vậy mà mấy hôm nay Tuấn thấy ngài ngại phải cùng Thảo đi đến nhà máy. Chỉ vì Thảo hay hỏi: Thế bao giờ anh Tuấn thi vào trường nhạc? Anh Tuấn có thi vào trường nhạc nữa không?... Khó trả lời quá!

Ở nhà máy, trong các cuộc vui, người ta thường gọi Tuấn là nhạc sĩ. Nhưng, hình như Thảo chỉ muốn Tuấn là công nhân, là công nhân ở mãi cái nhà máy này. Có gì đối lập giữa hai nghề ấy, nghề thợ và nhạc sĩ?

Tuấn đã hỏi Thảo điều anh từng băn khoăn ấy.

-                     Không, không… Thảo có bảo anh Tuấn đừng thi vào trường nhạc đâu. Chưa bao giờ. Và… chẳng bao giờ!

Giọng Thảo như run run, vội vã thanh minh.

Không ngoái lại, Tuấn vẫn cảm thấy hai má Thảo ửng đỏ. Và anh vụt hiểu ý nghĩa sâu xa của những câu Thảo hay hỏi mình gần đây. Anh nói với Thảo cả những điều chưa bao giờ nói với người con gái nào. Cũng chưa bao giờ nói với bạn trai. Những điều ấy, anh mới chỉ ghi nhật ký gần đây.

-                     Làm gì thì làm - Tuấn nói - việc đầu tiên là phải làm một người tốt đã. Làm người tốt khó hơn tất cả mọi ngành nghề khó. Mình nghĩ thế đấy, Thảo ạ!

-                    

-                     Không, mình không sách vở đâu. Mình nghĩ không trái với những điều Thảo nói, các đồng chí nói với mình.

Rồi Tuấn đạp xe nhanh hơn, không hề ngạc nhiên khi thấy Thảo chỉ yên lặng. Anh thấm thía sự yên lặng của Thảo, như trước kia đã thấm thía những lời Thảo chê trách và động viên anh. Nhiều lần anh muốn cảm ơn Thảo, cảm ơn các đồng chí đã chân tình giúp đỡ mình, mà thật khó nói. Có phải cả Thảo nữa, hình như Thảo vẫn chưa nói hết được những điều Thảo cần nói với mình?...

Đến cửa nhà máy, Tuấn và Thảo xuống xe, hòa vào đám đông. Họ đi sóng đôi qua cổng, trong tiếng máy bộ phận theo ca xình xịch vang lên thân thuộc; và tiếng hát bài ca Người Hà Nội trên loa truyền thanh như giục giã lòng người - bài hát mà cả Tuấn cả Thảo đều mê…

                                    1969

* Giải Khuyến khích năm 1969 - Giải thưởng hàng năm của Chi hội Văn nghệ Hà Nội tặng

 

 

 

 

 

Sau lúc người thợ lái ốm

 

-                     Cô đi kiện đi. Tôi bỏ tết nhất lên huyện lên thành theo kiện với cô. Cô là Chủ nhiệm Hợp tác xã, xã viên ốm, cô có ốp họ ra đồng làm việc không? Tôi hỏi cô thế!

Mắt An không rời mắt bác Đội trưởng máy kéo. Không một ai tự cho mình là đuối lý. Họ nhìn nhau như thách thức và sẵn sàng biện bác.

-                     Xã viên nào ốm - An nói, giọng vẫn trong trẻo - cháu để họ nghỉ. Phần việc của họ, cháu điều người khác thay. Chả lẽ Đội máy kéo của bác lại không có lấy một người thợ lái dự bị?

Bác Đội trưởng bật đứng lên, như để thu hẹp khoảng cách giữa hai người, dù họ chỉ cách nhau một cái bàn.

-                     Hừ, thợ dự bị! - Vừa nói, bác Đội trưởng vừa vung tay - Đội máy kéo của tôi không phải là đội bóng đá. Cô vặn nữa đi. Tôi sẽ trả lời cô, trả lời ngay tức khắc. Ở đây hay lên huyện lên thành, tôi đều trả lời được hết!

Nói xong, vẫn không thấy An lộ vẻ bối rối, bác Đội trưởng nén tiếng thở dài. Và thoáng như bắt được một ý nghĩ sâu sắc, bác từ từ ngồi xuống, bình tĩnh khác hẳn lúc bật đứng lên. Hai tay bác khua trong đám giấy tờ đặt trên bàn:

-                     Chỉ thị đây! - Giọng bác trở nên trầm đục - Chỉ thị của Ủy ban Hành chính Thành phố đây! Chính vì làm theo tinh thần này mà cả Đội máy kéo chỉ còn tôi ngồi lại. Thợ lái, thợ máy đi hết, đi tất xuống các hợp tác xã. Cả đội chưa ai về nhà. Kế toán, thống kê hiện vẫn xuống xã. Cô thấy chứ?

-                     Cháu thấy. - An ngồi không nhúc nhích, mấp máy môi xác nhận điều bác Đội trưởng vừa nói.

Từ lúc cô Chủ nhiệm Hợp tác xã đến buộc bác Đội trưởng phải lo cho xong một việc “vô kế khả thi”, lần đầu tiên bác cảm thấy mình lợi thế.

-                     Đấy, cô thấy đấy, cả đội chỉ còn độc tôi. Tôi lo đủ việc. Chỉ không lo sắm tết cho riêng tôi thôi. Cô mách nước để tôi lên trạm xin người, vô ích cô ạ. Trạm cũng như đội, không còn ai ngồi nhà lúc này, trừ tay thủ kho. Hay tôi phải bỏ nốt mọi công việc xuống cày cho cô?

Bác Đội trưởng nói xong, chưa kịp dò xem An sẽ đối đáp thế nào, thì An đứng dậy. Cô nhẹ nhàng chít lại chiếc khăn len xanh cho sát vào hai mái tóc, như khi sắp sửa đi từ nhà lên đây, giữa lúc gió mùa đông bắc quần thảo đất trời.

-                     Cháu không có quyền cắt việc cho bác. Cháu chỉ yêu cầu bác thực hiện đúng các khoản đã ký. Không cày bừa, bỏ dở khoảnh ruộng, ra giêng giống má của cháu hỏng hết. Mua giống má, cháu cũng phải ký hợp đồng, ngày ấy tháng ấy phải lấy; chứ không thể nói: Thôi, tôi không mua nữa, vì đất tôi chưa cày!

Nói rồi, An im lặng hồi lâu. Bác Đội trưởng cũng im lặng hồi lâu. Chỉ có gió đông bắc không im lặng. Gió âm âm vặn những cành cây vừa nhu nhú lộc. Bụi quẩn vào bên gốc đa cổ thụ. Sân đình sạch quang. Gần đấy, những vết xe máy kéo như càng hằn sâu trên một vạt cỏ lam nham dầu mỡ. Không ai giận ai, nhưng cả hai không thể xoa tay vui vẻ với nhau, để rồi cùng thở phào nhẹ nhõm: Thôi tạm gác việc này, tết ra hãy hay.

An chả đi kiện đâu, bác Đội trưởng biết vậy. Biết vậy, bác vẫn bứt rứt. Ai đúng ai sai thì số ruộng cày bừa trước tết vẫn cứ trơ trơ ra đấy với những gốc rạ đáng ghét. Quy trách nhiệm bao giờ cũng dễ hơn là cùng nhau bàn bạc, để tránh việc xấu xảy ra. Bác Đội trưởng se sẽ thở dài, rồi cúi xuống nhặt chiếc áo bông để trên mặt ghế, đã nguội hết hơi ấm, hững hờ khoác lên vai. Chiếc áo khoác lù xù làm bác càng thấp béo hơn.

Xế trưa, trời vẫn không ngớt gió.

Quái, sao “con bé” này chịu ngồi lặng thinh? An không nói, bác Đội trưởng đâm ngượng ngùng. Chừng An cố ý ngồi thừ ra đây để buộc bác phải bằng mọi cách lo cho xong việc. Nhưng bác không thể lo được gì. Bác muốn An nổi khùng. Giá nó cứ xoay mình như hồi nãy, thì lại dễ xử. Bác nghĩ và nhìn An. An mấp máy môi  nhìn lại bác. Đôi mắt An đầy vẻ lo âu. Bác Đội trưởng ngại nhìn cặp mắt như thế. Bác đã từng lo âu nhiều về cái Đội máy kéo của mình. Những lúc ấy được ai giúp, dù chỉ là một ý kiến hay, cũng để bác mừng rơn, nhớ ơn mãi. Nay bác chả còn cách gì để cày cho xong số ruộng phải cày trước tết, như đã ký trong hợp đồng.

-                     Đành vậy cô ạ. Chúng tôi cũng khổ tâm lắm.

Bác Đội trưởng nói giọng dỗ dành An, mong An vui vẻ ra về. Con bé cứ ngồi thờ thẫn thế kia, phiền lòng lắm. Ngộ nhỡ nó òa khóc thì sao? Chủ nhiệm Hợp tác xã, nhưng vẫn là con gái. Ở tuổi đôi mươi, con gái khóc là thường. Nghĩ vậy, bác Đội trưởng thầm phát hoảng.

-                     Chậm nhất là sáng mùng ba tết, người của đội tôi sẽ có mặt ở chỗ cô. Tôi cắt về đấy thêm một máy nữa, hai máy cày thật lực, không muộn mấy tí đâu cô ạ.

An ngồi yên, chẳng nói năng gì. Nếu không có tiếng giày chợt khua mạnh ngoài sân đình, chưa biết An còn ngồi như vậy đến bao giờ.

-                     Thày!

-                     Ô, thằng Giang!

Bác Đội trưởng ôm chầm lấy người thanh niên vừa bước vào. An hiểu ngay là mình mừng hụt. Người thanh niên kia không phải là thợ lái máy kéo
từ dưới xã có việc trở về đội. Nhìn đồng phục màu xanh lá cây, An đoán anh ta là thanh niên xung phong. Ý chừng ngượng với An, người con trai gỡ tay bố đang quàng qua vai mình, khẽ gật đầu chào An. An đứng dậy, nhường ghế cho người mới đến.

-                     Cô, cô cứ ngồi. - Giọng bác Đội trưởng như lứu lại - Đây là con trai tôi. Nó công tác mãi trên Tây Bắc.

Bác Đội trưởng như thoáng quên An, quên cả việc An đang đòi bác phải lo cho xong công việc cày đất trước tết. Bác nói với người con trai dồn dồn dập dập:

-                     Sao thư cho thày con không nói chuyện con về. Thày cứ nghĩ con không được về. Gớm, u mày mong sốt ruột sốt gan, chỉ lo tết này mày không về. Hôm trước qua đây, cứ giục tao đánh điện ngay cho mày, xem sự thể thế nào?

Người con trai cười với bố:

-                     U con lúc nào chẳng lo con trai mình ế vợ…

Anh định nói nữa bỗng dừng lại. Và lúc này anh mới nhớ ra là phải hạ cái  ba lô khỏi vai. Anh nhìn bố, rồi nhìn An như hỏi: Cô này là ai?

Nét vui vừa lộ trên khuôn mặt bác Đội trưởng biến hết. Bác nói với người con trai, giọng phiền muộn:

-                     Đây là cô An, Chủ nhiệm Hợp tác xã. Chả là Đội của thày nhận cày cho Hợp tác xã của cô ấy một số ruộng, hạn đến mai là xong. Thằng Nam, con biết nó đấy, đang lái máy thì phải cảm…

Không đợi bố nói thêm, người con trai đã hỏi:

-                     Đội không còn thợ lái nào để thay cậu Nam à? Nam nó cảm nặng không hả thày?

-                     Nặng thì chẳng nặng, nhưng ít cũng phải nằm bệnh viện dăm bảy ngày.

Nghe hai bố con bác Đội trưởng nói chuyện, An chớp chớp mắt. Một nụ cười kín đáo lướt qua môi cô, để lại trên khuôn mặt bầu bầu đang hồng lên kia những nét rạng rỡ. Có lẽ anh ta là thợ lái máy kéo? Nếu vậy thì…

Không chút ngần ngại, An hỏi người con trai bác Đội trưởng:

-                     Anh được nghỉ phép về thăm nhà lâu hay mau ạ? - Tuồng như nóng ruột, không chờ người thanh niên trả lời, An hỏi luôn câu thứ hai - Anh cũng làm nghề như bác à?

Bác Đội trưởng đưa mắt nhìn con. Trong câu hỏi của An, bác cảm thấy có ý táo bạo. Người con trai không hiểu cái nhìn của bố, nên trả lời An liền liền. Nào tôi và Nam là bạn; tôi mê máy kéo, vì từ mười lăm tuổi đã được thày tôi cho ngồi buồng lái… Dáng chừng để tỏ cho An biết mình cũng thông thạo công việc, anh quay sang hỏi bố:

-                     Thế nghĩa là bố đành để lỡ hợp đồng?

Bác Đội trưởng gật đầu, nhưng trong tâm thì bực bội. Bác không thể nói với con rằng: Anh tưởng anh thông hiểu đấy à. Anh dốt thì có. Đáng lý anh nên ăn nói ý tứ hơn, kín đáo hơn kia. Bố anh đang gặp khó khăn, mà anh thì cứ phô nghề của anh ra.

Người thanh niên móc túi lấy thuốc lá, châm lửa cho mình, lại châm cho bố; không hề cảm thấy ông bố đang rất khó chịu vì cách nói năng của mình.

Ngược lại, An tươi tỉnh hẳn lên. An hỏi người con trai về công tác của anh, về vùng Tây Bắc xa xôi, về cả công việc của anh trong dịp tết này. Sau đó An nói như để thanh minh rằng, An đến đây không phải chủ tâm làm rày bác Đội trưởng. Vì công việc chung, bắt buộc An phải nhắc đến cái hợp đồng.

Bác Đội trưởng tấm tức, vừa pha thêm trà, vừa nhìn người con trai.

-                     U con khỏe chứ thày?

Không thấy bố trả lời. Lúc này người con trai mới cảm thấy bố đang có điều không vui. Anh nói thêm:

-                     Mãi hôm kia con mới nhận được lệnh về Cục Cơ khí của Bộ. Bác Tuấn gọi con lên Văn phòng bảo: Cho mày về nghỉ phép kết hợp vài ngày. Thày lại viết thư cho bác ấy hả?

Như để trút nỗi bực dọc trong người, bác Đội trưởng trả lời con, giọng gằn gằn:

-                     Tôi không có nhờ bạn bè đỡ đầu anh kiểu ấy. Chả thế mà tôi để anh lên Tây Bắc. Như người khác, làm gì tôi không giữ được anh ở lại, không ở đội này thì cũng ở trạm máy kéo này.

Người con trai cười, hít một hơi thuốc dài. Bác Đội trưởng không ngờ câu nói tưởng như giận dữ ấy lại làm An yên trí với dự định của cô. An nói, không ra nói với bác Đội trưởng, không ra nói riêng với người con trai:

-                     Nếu lái máy kéo dễ như đi xe đạp thì chả nên chuyện. Ai cũng có thể leo bừa lên, đạp dấn, ngã vài lần khắc quen. Đã thế, cái máy kéo cứ sừng sững ngay bên đường, như trêu tức bà con xã viên, khiến họ càng thúc khỏe. Ai cũng lo hỏng mạ, hỏng màu.

Lần đầu tiên người con trai nhìn An hơi lâu, rồi hỏi bố:

-                     Thày định giải quyết việc này thế nào? Bà con xã viên giục cũng phải!

Bác Đội trưởng lừ mắt nhìn con. Lúc này, bác ghét An thực sự. Một cái gì gần như ghen tuông ấm ức trong lòng bác. Thế ra nó bênh con bé này? Giục là phải! Nó nói cứ như ta đây khách quan. Nó không biết là bố nó đang gặp khó hay sao, mà nói năng như vậy?

-                     Anh mặc tôi! Về đây, anh hãy lo liệu tết cho mẹ anh. Việc này là việc của tôi. Không ai muốn để hỏng việc, anh phải hiểu như thế chứ!

Người con trai biết bố giận, im lặng đập đập điếu thuốc trong hai ngón tay. An nhìn hai bố con bác Đội trưởng, im lặng. Nếu không vì công việc cấp bách, An không bao giờ để bố con người ta phải khó chịu với nhau trong những ngày sát tết này. Nhưng An chả có cách nào khác. Âu đây cũng là một cái may cho Hợp tác xã của An. Nghĩ thế, An nói luôn. Cô vừa nói vừa nhìn bác Đội trưởng, nhìn cả con trai bác nữa; cứ như buộc bố con họ không được lảng tránh chuyện này.

-                     Cháu đã toan về, vì có nói nữa, bác cũng hết cách. Không lẽ cháu cứ ngồi đây ăn vạ bác. Tết nhất đến nơi rồi, cháu còn bao nhiêu là việc. Nhưng bây giờ cháu nghĩ khác. Cháu tin bác vui lòng giúp đỡ bà con xã viên. Cháu nói, bác đừng cho là cháu đáo để. Cháu muốn bác để anh đây - An ngừng lại rồi nói tiếp một mạch - xuống giúp Hợp tác xã cháu ít ngày. Cháu biết gia đình ta đang mong anh ấy.

Bác Đội trưởng sầm ngay mặt lại. Bác đã lo lo từ trước: Khéo con bé này tìm cách nhờ con trai bác. Gọi là nhờ, kì thực cô ta buộc con mình phải giải quyết xong phần việc của bố đang làm dở dang. Tuy thế, bác lại nghĩ: Chắc nó chả dám! Vậy mà An đã dám, lại còn nói thẳng ra trước mặt hai bố con bác. Bác lúng túng chưa biết trả lời thế nào, thì người con trai đã lên tiếng. Bác bằng lòng cái lối lý sự của con trai:

-                     Tôi không phải là người của đơn vị đã ký hợp đồng với chị - người con trai đứng dậy, tiếp tục nói - nhưng nhỡ thày tôi đồng ý nhờ, tôi lại không nghe thì sao?

Đến lượt An lúng túng. Bác Đội trưởng nhìn An, hai mắt lấp lánh những tia vui hóm hỉnh, giễu cợt. Thế chứ, con trai bác có phải là tay vừa đâu. Hai mắt An nhìn thẳng vào người thanh niên:

-                     Tôi nói vậy cũng là nói cả với anh. Còn như bác đây đồng ý, mà anh không thì…

Người con trai ngắt lời An, hai mắt anh ánh tia vui, giống như in mắt người bố:

-                     Thì chị sẽ phê bình tôi là một thanh niên loại B chứ gì?

Bác Đội trưởng không giữ được ý tứ nữa, bật lên cười. Nhưng tiếng cười của bác bặt ngay khi người con nói tiếp câu sau; tưởng đâu ai nói, chứ không phải con bác nói. Nó đương tấn công mà lại quay ra hàng luôn.

-                     Tôi nói thế thôi. Thày tôi đồng ý, tôi cũng đồng ý. Việc này đâu phải việc riêng của chị.

Bác Đội trưởng ngơ ngác. Thằng con bác đã xung phong, đã tự nguyện rồi, bác can ngăn sao được. Can ngăn không được mà còn mang tiếng rằng bác cá nhân, ích kỷ. Bác đưa mắt nhìn An dò thái độ. An không có vẻ gì là người thắng thế. Con trai bác Đội trưởng không hiểu nỗi lòng bố, nói luôn:

-                     Con giúp thằng Nam, để nó yên tâm điều trị.

Rồi anh hỏi bố, hỏi An diện tích số ruộng đã cày, số ruộng còn lại, số nhiên liệu. Hỏi xong anh quả quyết:

-                     Con chỉ cần hai ngày. Ba năm trên Tây Bắc con quen làm việc nước rút rồi. Đấy rồi thày xem, thằng Nam học trò yêu của thày không ăn đứt con đâu.

An yên lặng nghe bố con bác Đội trưởng bàn, không hề sốt ruột. Bác Đội trưởng nén hơi thở dài, quay nói với cô Chủ nhiệm Hợp tác xã:

-                     Thôi, nó đã định thì để nó xuống chỗ cô. Nhưng mà… - quay sang phía con - đừng có làm quá sức đấy. Hôm nay hai mươi bảy, đến hai mươi chín tức ba mươi tết, không xong hẳn thì cũng hòm hòm. Còn lại bao nhiêu, sang giêng làm nốt.

-                     Thày yên trí. Con nhất định ở nhà với thày u cả ngày mùng một tết. Mùng hai con lên Cục báo cáo có mặt đúng ngày giờ.

Lát sau, bác Đội trưởng đi giữa An và người con trai, thong thả bước ra khỏi văn phòng đội. Đi như vậy, bác cảm thấy mình không hề bị động trong việc này. Mà chính bác là người chủ động tìm cách giúp An.

Gió đông bắc lúc mỗi mạnh lên. Trời đầy một màu xám nhạt nhờ. Trong gió lạnh, những chồi xanh trên cành cây như vẫn vươn lên từng tí, từng tí một…

                                                            *          *          *

-    Tên tôi là Giang.

  -    Tên tôi, anh biết rồi đấy.

            Vẻn vẹn chỉ có thế, từ Đội máy kéo về đến đầu làng, họ hầu như yên lặng. Thấy hai người, mấy cô trong tổ kỹ thuật đang chăm bèo hoa dâu, reo lên:

-                     A, chị An đã dẫn được người về rồi!

Giang hắng giọng:

-                     Họ làm như tôi là một đứa trẻ.

An chống chế:

-                     Các cô ấy lo tết ra ruộng chưa cày bừa xong.

Giang lắc đầu:

-                     Các cô ấy phục chị Chủ nhiệm thì đúng hơn.

Đến nhà, An chưa kịp mời Giang uống nước, Giang đã hỏi liên tiếp:

-                     Chị nắm vững số ruộng chưa cày?... Có thực chỗ ma-dút anh Nam để lại là hai trăm lít?... Chất đất trên cánh đồng Hợp tác xã cần cày sâu bao nhiêu?... Từ hôm anh Nam đi bệnh viện, không ai mó máy vào cái máy kéo chứ?...

Hỏi xong, Giang giục An đưa ra đồng.

-                     Tôi cần xem thực địa… A, chị có bản đồ thổ nhưỡng à? Hợp tác xã ngoại thành Hà Nội có khác!

Giang xích lại gần, cúi hẳn người xuống tấm bản đồ ruộng đất An vừa trải ra.

-                     Loại bản đồ này chính xác đấy. Nhưng cứ tận mắt vẫn là hơn.

An liếc nhìn chiếc đồng hồ báo thức đặt trong tủ chè kê sát tường. Ba giờ, dễ anh ta chưa đói. Hay anh ta muốn làm cho xong việc thật nhanh. An cần nhanh, nhưng rất sợ cái lối làm nhanh chớp nhoáng đảo nhoàng.

Ra đồng, chỉ nhìn thoáng qua ruộng đất, Giang xăm xăm bước tới chiếc máy kéo MTZ đỏ tươi, điềm nhiên đứng giữa trời. Không đếm xỉa đến gió đông bắc về chiều càng lộng lên choáng tai choáng óc, Giang kiểm tra dầu nhớt, rồi mở cửa buồng lái, trèo vào.

Khi chiếc máy kéo nổ rồ lên, Giang thấy yên tâm, tỉm tủm cười. Anh chàng Nam sử dụng bảo quản máy kể cũng tốt!

An chưa kịp bàn thêm công việc, Giang đã giục:

-                     Thôi, chị về đi. Tôi làm luôn đây.

Tối một lúc lâu Giang mới về. Vừa ngồi vào mâm cơm, Giang vui vẻ khoe:

-                     Làm việc với cái máy tốt thích thật, chị ạ.

An nghĩ: Người làm ăn cẩu thả không nói về máy móc như vậy.

Sau bữa cơm, Giang hỏi mượn An chiếc kim băng, lật cổ áo bông lên cài lại.

-                     Anh định làm đêm?

-                     Vâng.

-                     Trời tối và rét lắm!

-                     Rét chả lo. Anh em lái xe chạy đường rừng đường đèo Khu Bốn bằng đèn gầm còn chả sợ gian nguy, tôi một mình trên cánh đồng rộng với hai cái đèn pha sáng rực thì ngại gì.

Uống thêm một chén trà ấm, Giang đứng lên đi làm.

Nửa đêm, An tỉnh giấc. Tiếng máy kéo từ xa theo gió vọng vào thôn xóm. Dễ anh ta định làm đến sáng. Có nên gọi anh ta về nghỉ? Người lái chiếc máy kéo kia vừa từ Tây Bắc xuôi, chỉ mới đảo qua nơi bố làm việc, chưa kịp thăm mẹ. Mẹ anh cũng ở một làng ngoại thành như làng này.

Hai lần An bước ra cửa lại vào. Dù sao, anh ta với An chưa phải là thân. Khuya khoắt thế này, An một mình ra chỗ anh ta chả tiện.

Tiếng máy nổ ròn đều đặn vẫn vọng về ; tựa như tiếng nước trên đập cao đổ xuống lòng mương. An chẳng tài nào ngủ tiếp giấc trong chăn bông ấm áp. Lát sau, An không nghe tiếng máy nữa. Im lặng hồi lâu… Có lẽ anh ta nghỉ? Tiếng gió quét rặng tre sau nhà xào xạc. An nghĩ thương anh ta vì mình, à không, vì Hợp tác xã này mà chịu rét mướt.

Nghe tiếng gõ cửa, An đánh diêm châm đèn để đón anh ta. Qua ánh đèn dầu vàng nhạt, An nhìn khuôn mặt người thợ lái máy kéo như sắt lại. Anh đỡ chén nước trà nóng An đưa, nhấm nháp từng tí một.

-                     Tôi thấy anh không nên làm đêm.

-                     Chị sợ tôi cày lỏi?

-                     Không.

-                     Vậy tại sao?

-                     Còn hai ngày nữa mới tết, làm bình thường vẫn kịp.

-                     Tôi không hiểu làm bình thường là làm thế nào?

-                     Làm như những người khác vẫn làm. Làm ban ngày.

-                     Sao tôi cứ phải làm như người khác làm?

-                     Để giữ sức khỏe.

Hai má An nóng bừng vì chính câu trả lời của mình.

Ít phút sau, An soi đèn dẫn Giang sang nhà bên cạnh, chỗ Nam vẫn ngủ.

… Lúc loa truyền thanh bắt đầu buổi phát thanh nông thôn, An đã thấy Giang sang. Giấc ngủ ngắn ngủi cũng giúp anh bớt hẳn nỗi mệt nhọc. Giang bảo An:

-                     Lát nữa chị cho tôi ăn cơm ở ngoài ấy, khỏi đi về mất thì giờ.

Sao giọng anh ta cứ dứt khoát như ra lệnh. Đành rằng anh ta tích cực, nhưng vì cớ gì không nói năng dịu dàng hơn. Hay anh ta có bực bội gì khi về đây. Tại mình hay tại ai? Mà chả cần biết làm gì. Cứ riêng cách ăn nói ấy, đừng hòng An tự tay mang cơm ra đồng. An còn công việc của An. Ở một Hợp tác xã vừa cấy lúa, vừa trồng màu, lại tết ập đến, công việc ít đâu.

Định bụng vậy, nhưng rồi An vẫn mang cơm ra đồng. Thức ăn, An đựng trong cà mèn. Cơm xới ra liễn sành, ủ trong cái rá cho đỡ nguội. An tự lý luận: Mình mang cơm cho anh ta còn là để xem anh ta làm ăn ra sao. Nhiệm vụ mình phải kiểm tra việc làm của anh ta cơ mà.

Giang đỡ liễn cơm, hỏi An:

-                     Chị thấy thế nào?

An giả như chưa hiểu, hỏi lại:

-                     Thấy gì kia?

Giang nheo mắt nhìn những đường cày:

-                     Thấy tôi xoay sở với khoảnh ruộng này ổn hay không ổn?

Trước khi gặp Giang, từ xa An đã ngắm nghía những luống đất cày ánh lên một màu da lươn, cuộn xếp vào nhau như sóng gợn. Công việc của anh thợ máy này không có gì đáng phàn nàn. Nhưng khen anh ta thì An chẳng muốn. An trải tờ giấy báo, dọn bữa cơm ngay cạnh đường mương, bên hàng cây phi lao cao vút như những mũi mác.

-                     Chiều nay tôi bận không mang cơm ra đây được nữa.

-                     Chị không nhờ được ai thì tôi phải về vậy. Kể ra, đi đi về về cũng mỏi, lại mất thời giờ làm việc.

-                     Thế anh lại định làm đêm nữa à?

-                     Vâng. Tôi tính rồi, chỉ chiều mai tôi có thể thay mặt Đội máy kéo nhận ở chị một chữ ký là hợp đồng đã được thực hiện.

An nhận thấy lúc này giọng nói của anh thợ lái máy kéo âm ấm một niềm vui thân mật.

-                     Tôi cũng sẽ thay mặt Hợp tác xã cảm ơn anh, cảm ơn cả… bác Đội trưởng… anh Nam… Nhưng tôi vẫn thấy anh không nên làm đêm. Anh vội lắm à?

Giang đậy hai ngăn cà mèn vào nhau:

-                     Nếu tôi trả lời rằng không, thì chị cũng chẳng tin. Sự thật là tôi có vội.

-                     Thế sao anh phải chối.

Giang bật cười thành tiếng. Tiếng cười ròn tan. Suýt nữa An cười theo.

-                     Tôi có chối đâu. Tôi chỉ muốn nói với chị rằng, vội thì có vội nhưng tôi không làm ẩu. Có phải chị sợ tôi làm ẩu không?

Giang hỏi thẳng, khiến An không thể không nói thực. Tuy vậy, An chỉ gật đầu.

-                     Ông cụ tôi - Giang nói giọng cởi mở hơn - tiếng thế mà không kiên quyết lắm đâu. Tôi chắc ông cụ đã tìm cách báo cho mẹ tôi biết tin là tôi đã về. Sợ mẹ tôi sốt ruột.

-                     Anh là con một?

-                     Con út. Chị tôi đã lấy chồng. Về quê chồng từ khi tôi mới lên Tây Bắc.

-                     Anh lâu chưa về nhà?

-                     Ba tết!

-                     Tại sao?

-                     Mấy năm vừa rồi, chị biết đấy, ở đâu, làm công tác gì cũng không tiện đi lại dịp tết. Tết nghỉ có hai ngày, đường xa, về làm sao nổi. Nghỉ nhiều, công việc bộn bề, sao yên.

-                     Có thật chỉ vì công tác?

Cảm thấy câu hỏi hơi thân mật, An vội chữa:

-                     Nhiều khi ngại tàu xe không về, các anh cũng đổ tại công tác.

-                     Ai lại nói dối các cụ. Tôi rất sợ…

-                     Sợ gì?

An liếc nhìn vào mắt Giang, ngờ vực.

Giang lại cười, nhưng không cười to như lần trước. Lúc anh cười, nom hóm hỉnh hơn, tươi tắn hơn. Giang lắc đầu:

-                     Tôi không sợ bà cụ giục lấy vợ đâu.

Một lần nữa, An buột miệng hỏi câu mà ngay sau đấy, An thẹn đến mức không còn nghĩ được câu gì nói gỡ lại:

-                     Anh đã có nơi có chốn hẳn thôi?

-                     Nếu thế tôi càng sợ. Biết đâu bà cụ chẳng đã dấm dúi một đám nào cho tôi rồi. Và bà cụ lại không ưng cái đám tôi tự tìm hiểu.

An cười tủm. Trong ý nghĩ, An bắt đầu thay hai tiếng “anh ta” bằng tiếng “anh ấy”.

Tự đêm qua, An không còn cho rằng người thợ lái máy kéo chỉ vì bạn bè, vì ông bố mà xuống đây. Chỉ thế, xuống đây, anh ấy có thể cày quấy quá để về. An chẳng làm gì được. Tết xong, An có trách đội máy kéo thì cũng là sự đã rồi. Anh ấy đi xa, những lời trách móc nặng nề nhất cũng không thể đuổi theo, làm cản trở đến công tác của anh ấy. Còn việc cày ruộng, anh ấy có bị luật lệ gì ràng buộc đâu. Nhưng sao lúc mới xuống đây anh ấy ít nói, khi nói lại toàn trống không với giọng lạnh lùng? Ý nghĩ ấy, An không thể hỏi bằng lời. Ai hỏi thế bao giờ? Rồi An nói sang chuyện khác.

Khi Giang đã vất mẩu thuốc lá trên môi xuống gốc cây phi lao, An mới thấy mình cần về để Giang làm việc.

Ngồi vào buồng lái, Giang còn nhìn theo mãi cô chủ nhiệm Hợp tác xã, dáng vóc thon mềm khỏe mạnh, bước theo bờ mương về làng. Không! Cô ta không nghĩ mình hăng hái nhận công việc này là vì cô ta đâu. Thế là may. Thế thoải mái hơn.

Các cô gái thường đánh giá sắc đẹp của mình bằng những thái độ ân cần của bọn con trai. Hẳn An không thế. Cô ấy nói năng chân thật, không ra bộ làm cao, không tìm cách khoe vị trí công việc của mình. Với những ý nghĩ ấy, Giang giữ vững tốc độ cho máy chạy đều đều. Và anh rất vui khi nghĩ rằng, công việc anh làm ít nhiều cũng góp phần gây được cảm tình tốt đẹp của bà con xã viên đối với Đội máy kéo của bố anh.

Về đến nhà, An bị hút ngay vào công việc cuối năm của Hợp tác xã. Dự tính chia xong số thịt cho các đội thì trời đã sang chiều. Không biết anh ấy có chịu về nhà ăn cơm? Làm suốt thế hẳn mệt. Kệ, mình không mang cơm ra và cũng chẳng nhờ ai mang, đói bụng khắc anh ấy phải bò về.

Thực ra thì An chẳng thể kệ được. Anh ấy vội cũng có lý. Mẹ anh ấy đang sốt ruột chờ. Thế là anh ấy chỉ được nghỉ hơn một ngày. Sáng mồng hai tết bà con xã viên bắt đầu xuống đồng thì anh ấy cũng bắt vào công việc.

Trước mắt An là nội thành, lô nhô ống khói và những đường dây tải điện tỏa ra mọi hướng, đi xa mãi…

*          *          *

            -     Gia đình tôi mời anh về xơi cơm.

            An cố nghiêm mặt để cho giọng nói của mình thêm sức mạnh.

            Giang vừa nghe đã vội cười:

-                     Chị chả cần viện các cụ, tôi cũng về. Bây giờ, - Giang chỉ tay cho An nhìn khoảnh ruộng - công việc đã cho phép tôi về nhà ăn cơm.

Bữa ăn, Giang đưa bát cho An xới liền liền. Ăn xong, không nghỉ lâu hơn buổi trưa, Giang lại ra đồng.

-                     Tôi sẽ về sớm hơn đêm qua. - Giang hứa.

Giang nói câu ấy nho nhỏ, dịu dàng như thể xin phép An vậy.

Gió gần như ngừng hẳn. Không khí ấm áp hơn. Tiếng máy về khuya vẫn đều đều reo vào thôn xóm, và như lắng lại quanh lá màn giường An nằm. Có điều, đêm nay An không chút nghi ngại người lái chiếc máy kéo kia làm ăn cẩu thả, cốt cho xong việc; càng không nghĩ anh ta chơi trội. Ngày mai hai mươi chín, đã là ba mươi tết. An và Hợp tác xã của An phải cảm ơn anh ấy chứ - An nghĩ - Chẳng gì bắt được anh ấy xuống đây. Vậy mà anh ấy xuống đây. Xuống đây sau ba năm xa Hà Nội; và vừa trở lại quê hương, chưa kịp về thăm mẹ. Xuống đây, anh ấy làm việc không kém bất cứ một người thợ lái nào. Mình sẽ nói điều ấy trong buổi liên hoan đầu năm của Hợp tác xã. Mình có nên nói ý này nữa không: Anh ấy là một công nhân, một công nhân bình thường. Chả nên nói điều ấy. Nói thế có vẻ “lên lớp”. Chả nói mọi người cũng hiểu.

Ngày mai, không, tính thật đúng như anh ấy, sáng ngày mai anh ấy cày xong. Làm thế nào đưa anh ấy về nhà nhanh hơn? Nhờ ai đèo được đây?

Tiếng máy cày tắt từ lúc nào nhỉ? Anh ấy đã nghỉ rồi ư? Anh ấy nghỉ sớm hơn đêm qua. Anh ấy giữ lời hứa mà.

Đúng như An đoán. Giang đã đưa chiếc MTZ đến bên gốc cây phi lao cao vút, phủ lên nó một tấm bạt dày. Chiếc đèn bấm trong tay Nam soi rõ những hạt sương lấp lánh trên cỏ. Theo bờ mương, anh đi về phía những rặng tre cao cao đầu làng.

Đêm nay không khí và cả những vì sao lưa thưa trên cao kia, cũng từa tựa cái đêm đầu tiên anh cùng đội máy kéo mở chiến dịch vỡ đất trên thảo nguyên Châu Mộc. Những đêm vỡ đát trở về, cũng chiếc đèn bấm trong tay, anh tìm đến dãy lều bạt bên sườn đồi ngả lưng, đón giấc ngủ yên lành. Đêm nay, trên mảnh đất quê hương, anh nhận thấy đất cày đang tỏa mùi thơm. Dù đã đi nằm, nhưng anh không chờ giấc ngủ. Anh nhớ mẹ. Và cảm giác mùa xuân đang đến rất gần. Hương xuân thoang thoảng, nhưng rõ ràng là đã ngấm vào anh, như đã ngấm vào từng thớ đất, từng đường cày…

Tháng 5/1970

 

 

  

Rạng sáng

 

Tôi còn hai giờ nữa để nghỉ ngơi thoải mái.

Tôi có thể ngủ, tắm táp, hoặc châm cái bếp đèn dầu đun ca nước, để nhấm nháp nốt những cánh trà Hồng Đào còn lăn lóc trong chiếc túi nilon nhỏ. Với hai giờ, tôi có thể làm, nói cho đúng, tôi có thể hưởng cả ba cái thú ấy, sau khi đã hoàn thành tới chín phần mười nhiệm vụ.

Từ Hà Nội vào Vĩnh Linh, và từ Vĩnh Linh quay lại thành phố Vinh, tôi và chiếc Zin của tôi tuy có gặp trắc trở song vẫn an toàn tuyệt đối. Tôi đã vượt mọi cung đường dưới ánh pháo sáng xanh lét của địch lửng lơ trên đầu. Và chiếc Zin của tôi, nếu như có lúc nó gầm gừ, thì đấy chỉ là nỗi giận dữ trước những đoạn đường sụt lở bởi bom tấm bom tạ của giặc Mỹ quăng xuống. Hoàn toàn không phải nó và tôi đã mệt mỏi, phải nghiến răng nghiến lợi mới đi trọn chặng đường phải đi.

Nhưng tôi không tắm, không ngủ, cũng không uống trà. Tôi ngồi tựa lưng vào vách trạm, chân duỗi dài trên chiếc bạt lem nhem dầu mỡ. Cặp chân tôi đã bị co gập trong cabin xe suốt mấy ngày qua, nay tôi cần để nó thư giãn. Khi gân cốt dãn ra là lúc đầu óc tôi thanh thản nhẹ bẫng. Tôi bỗng nhớ tới Hương.

Bất chợt, anh chàng Bảy trưởng trạm xe xuất hiện:

-                     Hãn này, mày sắp xa chúng tao đấy. Mãn nguyện rồi chứ?

Và sau đó là những lời chúc mừng thành thật, phần nào pha lẫn tí ghen:

- Nay mai cậu kéo pháo qua đây, gặp chúng tớ, trước tiên xin nhường đường người chiến sĩ. Sau nữa… sau nữa… có gì cũng nhường hết; để cậu đưa pháo vào trong kia, tơi bời cho chúng nó biết tay.

Tại sao sẽ kéo pháo? Anh chàng Bảy đơn giản thật đấy. Là lái xe vào quân đội, tôi có thể không lái xe, mà làm một việc gì đấy. Giữ súng máy, dò mìn hoặc lái tăng thì sao? Nếu lái xe, hẳn đâu đã kéo pháo. Lái xe chở đạn dược, quân trang, lương thực… thì sao? Tôi không nghĩ như cậu Bảy. Tất nhiên tôi không chọn việc. Nhưng tôi mong, rất mong cấp chỉ huy hỏi tôi: Nguyện vọng đồng chí? Tôi trả lời luôn, à không, báo cáo ngay: Xin được ra tiền tuyến! Chính vì điều ấy tôi làm đơn xin nhập ngũ. Chính vì điều ấy, tôi mới không bịn rịn sẽ phải chia tay chiếc Zin của tôi.

Trong đoàn xe này, tôi không phải là người chạy Khu Bốn nhiều nhất. Cũng không phải người mới sơ sơ mùi bom đạn. Nhiều viên bom bi đã gõ cửa kính chắn gió “hỏi thăm” tôi. Chiếc Zin và tôi vẫn băng băng, không chịu dừng lại vì sự thăm hỏi kiểu ấy. Và tôi, như hàng vạn thanh niên khác, tôi sẵn sàng cầm súng xung trận để “hỏi thăm” lại bọn giặc Mỹ. Đó là điều ham muốn của tôi. Tôi không giấu diếm lòng ham muốn ấy. Nhưng tôi chưa một lần tranh cãi về cái lý do ham muốn của mình, cho dù đã có những  lời bàn tán của một vài người. Có gì phải tranh cãi. Tôi từng nói gọn: Thích ra trận không phải là một khuyết điểm!

Có đêm ngồi sau vô lăng, chạy trên đoạn đường gồ ghề, tôi nghĩ: Khéo mình lãng mạn. Lãng mạn trong tình yêu. Lãng mạn nhìn thời cuộc. Lãng mạn trước gian nan. Lãng mạn với cả chiếc Zin…

Chiếc Zin của tôi đâu phải là một con người. Ấy vậy mà tôi không dễ chia tay nó. Nếu phải chia tay, hẳn là tôi nhớ nó lắm. Tôi cứ bâng khuân cho rằng, chiếc Zin sẽ nói với tôi bằng giọng trầm trầm, đại thể là: Đồng ý, đồng ý để cậu ra trận. Tớ tán thành những cuộc chia tay như thế. Xin đừng vấn vương làm cản trở nhiệm vụ!

Tôi vào quân đội, ngoài mấy đứa bạn và chiếc Zin ra, chả còn ai khác để mà vấn vương. Tôi mồ côi cả bố lẫn mẹ từ hồi còn nhỏ. Từ nhỏ tôi đã cay đắng vì nỗi phải ở cậy ăn nhờ. Tôi bỏ nhà cô. Tôi bỏ nhà chú. Tôi không thích một gia đình kiểu lắp ghép ấy, tuy tôi khát khao có gia đình. Và tôi nhiễm không ít thói hư tật xấu trong những ngày lang thang tự lập.

Tôi học văn hóa ở trại Kim Đồng. Từ trại Kim Đồng, tôi sang trường học lái xe ô tô với bằng tốt nghiệp lớp Bảy. Ở trường dạy lái xe, tôi không quên những điều học được ở trại Kim Đồng, cũng không quên nỗi đắng cay của một đứa trẻ bơ vơ. Vì thế tôi cố học thật tốt nghề lái xe, và khi ra trường tôi đã có trình độ văn hóa lớp Chín. Bạn bè có đứa nói móc: Dễ mày định thi kỹ sư ô tô? Kỹ sư, tốt chứ sao. Nhưng tôi không định kỹ sư kỹ xiếc gì cả. Tôi thích thì học, có thế thôi. Từ ngày thằng Mỹ giở trò chiến tranh đánh phá miền Bắc, chạy trên tuyến đường này, tôi đành thôi bổ túc văn hóa. Nhưng bụng vẫn chắc mẩm, thôi chỉ là tạm thời.

Tôi còn nghỉ ngơi được hơn một giờ.

Ngay mai thôi, tôi sẽ phải chia tay bạn bè và chiếc Zin của tôi. Nếu như mối tình của chúng tôi chưa tan vỡ, thì giờ đây tôi đã phác sẵn trong đầu những lời tạm biệt với Hương. Hơn thế nữa, chúng tôi sẽ nói với nhau về công việc của từng người, về sự chờ đợi và lòng chung thủy. Trong những câu chuyện như thế, tôi chắc hai người sẽ không mang tiếng “lên gân”, khi nói đến trách nhiệm của mình đối với Tổ Quốc, với nhân dân, với tất cả những gì ta hằng yêu dấu; mà ngày thường ít ai nói đến, vì sợ không đúng chỗ và là sáo mép. Với tôi và Hương, một cuộc nói chuyện như thế không bao giờ có nữa. Chúng tôi yêu nhau, nhưng chúng tôi đã xa nhau.

Khi ấy, Hương học ở lớp sửa chữa ô tô. Một anh học sinh tốt nghiệp lớp Mười, trượt đại học, đã chen vào câu chuyện của chúng tôi. Tôi và Hương rất phục sự hiểu biết của anh ta về Toán - Lý - Hóa. Anh ta không ngại mất thì giờ, đã bồi dưỡng hai chúng tôi hiểu thêm những điều cần hiểu về điện, về lực… Dần dà, tôi nhận thấy anh ta bảo ban tôi thì ít, kèm cặp Hương thì nhiều. Được, tôi sẽ mầy mò tự học. Trong trường, ngoài các thày, không phải chỉ có anh ta. Sách vở cũng sẽ giúp tôi. Chỉ cần tôi biết tự kiềm chế mình và tận dụng được thời giờ rỗi rãi. Tôi sẽ cố học lái xe cho giỏi, cùng việc sửa chữa xe thành thạo. Tôi hạ lệnh cho tôi không bát phố; thậm chí hạn chế cả đọc sách văn nghệ, xem xi nê. Trước mắt, tôi phải hiều về trục khuỷu, thanh truyền; phải hiểu các hệ thống nhiên liệu, bôi trơn, làm mát, đánh lửa… Tri thức ấy cần cho một người lái xe như phân bón cần cho cây cối.

Hương vẫn yêu tôi. Nhưng tôi không nhận ra đã có những sự khang khác ở Hương. Tôi đâu đủ kinh nghiệm để nhận ra những khang khác ấy. Mãi sau, khi Hương hỏi tôi về trại Kim Đồng với giọng tò mò cùng thái độ kiêu kỳ, khiến tôi tự ái.

Trại Kim Đồng đối với tôi không phải là một trại giam. Ở đấy tôi cũng có thày, có cô, có bạn bè, không khác Hương khi còn đi học. Từ trại Kim Đồng tôi đến trường dạy lái xe; cũng như Hương đến từ trường cấp Hai, và anh bạn lớp Mười của Hương đến đây. Chúng tôi đều bình đẳng trước người giảng dạy, trước bạn bè. Sao Hương không biết điều ấy? Sao Hương cứ nói đến trại Kim Đồng với giọng dè bỉu kín đáo?

Trước khi đến đây, tôi đã thay mặt anh em cùng đi, hứa với mọi người: Chúng em sẽ học tập để xứng đáng với lòng mong mỏi tốt đẹp của Ban giám hiệu. Kết quả khi ra trường, cả mười đứa chúng tôi đến từ trại Kim Đồng đều nhận bằng tốt nghiệp khá - giỏi. Vậy là, tôi không có gì phải thẹn với dĩ vãng, tuy rằng tuổi thơ ấu của tôi không êm ả như Hương.

Tôi không ngờ, chính anh bạn lớp Mười kia đã nhen nhúm lên trong Hương những ý nghĩ xúc phạm đến tôi. Khi nhận ra, không hiểu sao tôi lại có thể bình tĩnh được như thế. Thấy Hương đi chơi với anh ta, tôi không lườm nguýt vẫn gật đầu chào hẳn hoi. Mấy đứa bạn tôi biết chuyện, khen: Tốt! Một người lái xe rất cần điềm đạm. Mày có đức tính ấy đấy, Hãn ạ! Không hiểu như thế đã là điềm đạm chưa. Chỉ biết từ đó, tôi vẫn học như tôi đã định. Và tôi vẫn trả lời những câu Hương hỏi, như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có điều, tôi không cười với Hương nữa. Tôi rất muốn cười với Hương, như với mọi người khác, mà không thể.

Anh bạn lớp Mười của Hương giáng thêm cho tôi một búa: Hãn nó học miết để vượt đau khổ đấy! Câu nói ấy đúng. Nhưng nó không thể cất lên từ mồm anh ta. Tuy vậy, tôi không thù hằn. Thù hằn chẳng ích lợi gì. Hại thì chắc chắn.

Cho đến khi, không phải là nghe đồn nữa, khi biết chắc chắn anh ta thôi Hương, để yêu một cô giáo dạy cấp Hai, tôi như chiếc xe xịt lốp, không thể chạy được nữa. Mấy ngày liền, khó khăn lắm tôi mới lõm bõm nhớ bài giảng. Còn Hương, Hương tránh gặp tôi cả trong giờ ăn. Đôi mắt Hương ngơ ngác như một đứa trẻ bị đòn. Tôi tìm đến anh chàng lớp Mười, giữa lúc anh ta không thể ngờ sự việc lại xảy như thế. Tôi nắm bả vai anh ta, lắc mấy cái liền. Không cần để ý hai làn môi mỏng của anh ta đang run lên, tôi hỏi như quát:

-                     Tại sao mày xử đểu với cô ấy như vậy, hử? Đồ khốn nạn!

Hương không nhờ cậy tôi trừng trị kẻ làm Hương đau khổ. Con trai, con gái tìm hiểu nhau, yêu nhau, rồi vì một lẽ gì đấy không ưng nhau, (như tôi với Hương chẳng hạn) xa nhau là chuyện thường. Có sao đâu. Không! Anh ta không dám cãi lý với tôi. Tôi cũng chẳng lý sự gì. Tôi nắm tay lại, nhìn chằm chằm vào cái mũi vẫn được mệnh danh là mũi dọc dừa của anh ta. Hốt hoảng, anh ta vùng ra có ý tránh quả đấm của tôi. Tay trái tôi kịp đưa ra bóp mạnh bả vai anh ta, giúi lùi lại. Làm như thế để tôi khỏi phải vung tay nện vào cái khuôn mặt nhỏ choắt ấy một quả đấm.

Anh ta lạng người đi, chới với, nhưng kịp lấy lại thăng bằng rồi toan chạy.  Thấy tôi buông xuôi hai tay và thở dài thì không chạy nữa; và khi trấn tĩnh lại, anh ta lập tức tuôn ra những câu hỏi phóng vào tôi:

-                     Anh có quyền gì sừng sộ với tôi. Anh định hành hung tôi à? Tại sao? Tại sao?... Tôi làm gì anh?

Cái giận ngấm vào người như một chất men, tôi sấn lên:

-                     Tại sao hả? Mày giở cái trò ấy với bao nhiêu người rồi? Mày muốn yêu ai, mặc xác mày. Nhưng hễ mày còn rủ cô giáo ấy diễu trước mặt Hương, tao sẽ giần cho mày một trận, hiểu không? Tao sẽ giần cho mày một trận như người ta nói ấy, nghĩa là tao sẽ “luộc” mày! Rồi, trước cuộc họp, tao sẽ nhận là tao chí tâm trị mày. Vì mày là một thằng đểu, một thằng Sở khanh, nghe chưa?

Nói xong tôi bỏ đi.

Từ ấy đến ngày ra trường, Hương vẫn cố lánh mặt tôi. Tôi nửa muốn tìm gặp Hương, nửa không dám. Bạn bè nhận xét: Hương nó ngượng. Ngượng là tiến bộ đấy. Rồi ra có ngày nó sẽ chủ động gặp lại mày, Hãn ạ! Có thật rồi đây chúng tôi gặp nhau không?...

Ra trường, Hương đi phục vụ tại một trạm sửa chữa ô tô trên Tây Bắc. Nửa năm sau, tôi đang chạy tuyến phía Bắc thì được điều về đoàn xe chạy Bắc Nam, khi giặc Mỹ ném bom dồn dập miền Bắc.

Tôi còn nửa giờ nữa để nghỉ ngơi.

Dường như muốn tạo cho tôi thoải mái, băng băng về Hà Nội, cậu Bảy Trưởng trạm đã ra lệnh bốc lên xe tôi những hàng hóa nhẹ. Hai giờ chiều mai tôi sẽ có mặt ở Khu đội. Như vậy, ngày mai tôi còn ba hoặc bốn giờ nghỉ ngơi nữa. Tôi sẽ cạn một chầu bia với bạn bè, sẽ đi phố như một tay quen bát phố, sau hết sẽ mua sắm một vài thứ lặt vặt.

Sách vở của tôi, quần áo của tôi và những thứ không cần thiết cho đời lính, tôi sẽ mang gửi ai đây. Hay là tuyên bố cho béng thằng Khanh. Thế hơn. Thằng Khanh thích sách, nhưng chỉ hay mượn, mượn là lấy luôn. Có một quyển sách quý cho thằng Khanh mượn, biết nó không trả lại, nhưng khi mình cần đọc là có ngay. Có lẽ bạn bè đều nghĩ thế, nên tủ sách thằng Khanh hóa thành bề thế. Được, tôi sẽ góp vào sự bề thế ấy phần của tôi. Sau ngày chiến thắng trở về, tôi sẽ đến nhà nó, tắm rửa xong, cơm nước xong, bảo: Mày cho tao mượn bộ Chiến tranh và hòa bình. Tôi sẽ đọc hết bộ ấy trước khi ngồi lại sau tay lái. Tôi có thể hình dung được cảnh tượng mừng vui khi bạn bè gặp lại nhau sau ngày chiến thắng. Nhưng liệu rồi tôi có gặp Hương? Trong lúc xa nhau, biết đâu Hương chẳng đã yêu một người nào đó. Người đó hẳn không giống anh bạn lớp Mười giỏi toán. Tôi đinh ninh như vậy. Nhưng người ấy không phải là tôi. Thôi,… không nghĩ nữa!

Còn mười lăm phút nữa đến giờ tôi lên đường.

Anh chàng Bảy bắt tay tôi. Nhiều người nắm vai tôi. Có người ôm hôn tôi. Tôi bắt tay, ôm hôn lại mọi người. Và tôi nhảy lên xe.

Zin ơi, tao với mày đi nốt với nhau đêm nay nhé! Tôi lượn xe qua những con đường nhựa của Thành phố Vinh. Thành phố bị đánh phá nhiều lần, song còn giữ được dáng dấp phong quang của nó. Khi cho xe nhập đường số Một, tôi tăng dần tốc độ, ba mươi cây… bốn mươi cây…

Tôi nhẩm tính những bến đò, những quãng đường hay bị máy bay địch đánh phá. Và tôi đã vượt qua những điểm nóng ấy đúng như tôi tính toán. Suốt dọc đường, gió đưa vào cabin tôi mùi vị của biển khơi cùng nhựa thông, quen quen và nhẹ nhõm. Cũng suốt dọc đường, không hiểu sao trong ý nghĩ, tôi đã chào tất cả các địa danh đi qua. Chào Diễn Châu, chào Cầu Dát, chào… Chào những thì trấn thân quen tôi đã ăn, đã ngủ trên những nền nhà khét mùi khói đạn.

Chào Thanh Hóa anh hùng!

Vào cầu Hàm Rồng, tôi cho xe đi chầm chậm. Cây cầu rung lên như nói với tôi về những trận đánh oanh liệt đã diễn ra trên khúc sông này và hai bên đầu cầu. Khi xe vừa qua cầu, tôi bỗng chạm phải một bóng người đứng cản giữa đường. Nhờ ánh đèn gầm, tôi phân biệt ngay; người cản xe tôi là một lái xe, chứ không phải khách bộ hành xin đi nhờ. Tôi hãm xe từ từ đỗ lại bên đường, rồi nhảy phốc xuống. Trời tối mờ mờ nhưng tôi vẫn nhận ra anh bạn đồng nghiệp này. Tôi hỏi:

-                     Sao? Hỏng gì đấy?

-                     Pan điện.

-                     Đang chạy, “ực” một cái dừng lại chứ? - tôi hỏi thêm.

Anh bạn đồng nghiệp xác nhận:

-                     Dừng ngay. Má vít pa-ra-tin bị rụng.

Nông nỗi này, tôi nghĩ, hết đường sửa chữa. Nhưng tôi vẫn bấm đèn pin, lật nắp len-cô, bật má vít xem lại. Anh bạn đồng nghiệp không nhầm.

Chiếc đèn bấm của tôi soi lên thùng xe xem chở những gì. Trong ánh đèn, tôi sững người. Anh bạn đồng nghiệp có lẽ cũng nhận ra tôi. Tôi tắt đèn. Chung quanh chúng tôi tối om lại.

Tại sao tôi gặp anh ta trong đêm nay? Đã bao ngày rồi, tôi không còn nhớ đến anh ta. Đi nốt chuyến xe cuối cùng này, trước khi làm người chiến sĩ, chiều nay tôi đã nghĩ về anh ta. Và bây giờ thì anh ta đứng trước mặt tôi, trên cung đường thường bị máy bay Mỹ đánh phá ngày đêm. Anh ta không còn cách gì cứu vãn được tình thế, nếu không nhờ tôi. Hẳn anh ta đã đứng đây khá lâu rồi. Bởi xe nào anh ta nhờ cũng tin rằng, sau mình còn khối xe không vội và chở nhẹ hơn, sẽ kéo giúp anh ta.

Giúp anh ta hay cứ để mặc anh ta đứng đây với chiếc xe hỏng, đầy hàng hóa, trên đoạn đường rất dễ bị máy bay địch oanh tạc. Không ai có thể trách cứ tôi. Anh ta với tôi không cùng một đơn vị, tôi không bắt buộc phải giúp anh ta. Giúp anh ta có nghĩa là tôi phải cùng đi với anh ta trên một quãng đường khá dài, ít nhất là tới Ninh Bình mới có trạm sửa chữa nhỏ. Anh ta không ngồi cùng với tôi một cabin đâu, nhưng kéo chiếc xe ấy đi theo, tôi sẽ phải sống lại khổ nạn này với những đắng cay mà trọn đời chưa dễ gì quên. Không gặp anh ta, lúc này chiếc Zin của tôi và tôi đang băng băng. Dù tôi có luyến nhớ mối tình đã tan vỡ, cũng không đến độ xót sa như khi có anh ta ngồi ngay phía sau.

Đối với anh ta, Hương là gì? Chỉ là một cô gái nhẹ dạ, ít học hơn, và không xinh bằng cô gái dạy cấp Hai nọ. Có lẽ anh ta, từ độ ấy đến nay đã gặp một cô gái khác; mà theo anh ta, về nhiều phương diện còn hơn cả cô giáo cấp Hai. Nếu như anh ta yêu Hương và lấy Hương thì, đêm nay, không cần một lời, tôi sẽ chằng dây cáp kéo ngay chiếc xe cho anh ta. Không! Anh ta không yêu Hương. Anh ta đã đùa bỡn coi thường người mà tôi tôn trọng, yêu mến. Nhờ có tình yêu của Hương, tôi đã quên mình là một đứa trẻ không cha không mẹ, có một thời thơ ấu lang thang tủi buồn.

Mới ban nãy lòng tôi còn lâng lâng quang quẻ, tràn đầy niềm vui vì sắp được nhập ngũ, sắp được ra trận; nay nặng nề khó chịu biết bao. Chỉ cần tôi hé lời từ chối, chắc anh ta sẽ không nì nèo một câu. Tôi tin thế, cũng như chắc tin anh ta sẽ ngán ngẩm, thất vọng, cả ngượng ngùng, vì đang lúc rủi ro lại vớ phải tôi.

Tôi bấm đèn pin, nhìn lên xe anh ta một lần nữa. Qua ánh đèn trong xanh, một lần nữa, tôi nhận ra cái mũi dọc dừa, khuôn mặt nhỏ choắt năm nào. Khuôn mặt ấy nay sắt lại vì nỗi lo âu không giấu được, hiện trên cặp mắt mệt mỏi của anh ta.

Tôi tắt đèn pin. Chung quanh lại tối om.

Tôi nghe có tiếng sột soạt. Anh ta móc túi lấy bao thuốc lá; nhưng chiếc bật lửa, trong lúc lúng túng vì xe hỏng, đã vương đâu đó trong cabin. Anh ta toan trèo vào, tôi nói :

-                     Lửa đây!

Anh ta đưa thuốc lá cho tôi.

Xoẹt! Chiếc bật lửa của tôi cháy ngay. Vô tình hai chúng tôi chụm đầu châm cùng một ngọn lửa.

Tôi gảy ngón tay tắt vội ngọn lửa. Từ xa, nghe như có tiếng ầm ì của máy bay. Cũng có thể đấy chỉ là tiếng thông reo, theo gió biển vọng đến chỗ tôi và anh ta đứng.

Ngày mai tôi vào bộ đội. Ngày mai cậu là chiến sĩ quân đội nhân dân - anh chàng Bảy Trạm trưởng nói với tôi, giọng pha chút ghen tuông nhưng đầy thiện cảm, khi đưa tôi bức điện từ Hà Nội đánh vào:

“Bố trí Hãn về ngay. Hai giờ chiều ngày mười lăm tháng bảy có mặt tại Khu đội theo giấy gọi nhập ngũ”.

Bức điện ấy tôi gập tư, cặp giữa chứng minh thư và bằng lái xe.

Trong gió, tôi lại nghe thấy tiếng ầm ì. Nhưng lần này tôi tin đấy là tiếng máy bay, chứ không phải tiếng thông reo. Tôi nói, giọng không ra nhẹ nhàng, không ra thôi thúc:

-                     Mắc cáp vào!

Anh ta và tôi nhanh chóng mắc xong đoạn cáp vào sau chiếc Zin lực lưỡng, đường bệ của tôi.

Tôi nhảy lên xe, nổi nhẹ còi.

Ngồi sau tay lái, tôi không nghĩ đến nỗi đắng cay của mối tình tan vỡ, không phân vân rồi ra tôi và Hương có còn ngày gặp nhau, không nhớ cả giọng nói của Lực - tên anh ta - êm ái, rõ rành, dễ hiểu, vang lên khi giảng thêm toán cho tôi, cho Hương. Tôi chỉ nghĩ, và ý nghĩ ấy đã khiến tôi hoàn toàn thanh thản: Tôi không có quyền bỏ rơi đồng đội trong cơn hoạn nạn. Những chuyện riêng tư, trong chiến đấu không thể đặt lên hàng đầu!

Chiếc Zin quả cảm của tôi kéo theo chiếc xe Giải phóng pan điện, chở đầy hàng, băng băng cướp từng cây số trên đường số Một, để đưa anh ta đến trạm sửa chữa lúc trời rạng sáng…

Tháng 2/1971

 

 

Chiếc máy xếp tôn

 

Một tuần nay, trưa nào Song cũng ăn cơm tại nhà ăn tập thể. Ăn xong, anh bắt tay ngay vào việc, không chuyện gẫu với ai, không cả nghỉ ngơi mười phút tiêu cơm.

Dưới ánh nắng trưa, đống sắt vụn tỏa hơi nóng hầm hập như lò than. Song làm việc trong hơi nóng ấy. Chiếc lưỡi trai nhựa trên vành mũ bảo hộ lao động ánh lên như một hòn than đá. Không ai có thể bảo được Song “nghỉ cái đã”. Thư cũng không hài lòng, đã phải nghiêm giọng:

-                     Cần thì cần, anh cũng không nên tranh thủ quá sức.

Song ngẩng nhìn Thư. Khuôn mặt hồng hào của anh xám lại, những giọt mồ hôi làm bết mớ tóc lơ phơ ngoài vành mũ.

-                     Thư về đi! Nếu anh muốn Thư cùng làm thì anh đã trao cho Thư bản vẽ thiết kế cái máy ấy.

Thư lên giọng gay gắt. Nhưng là cái gay gắt nũng nịu, chứ không phải sự gay gắt của một cơn giận bùng lên:

-                     Anh cho em là một đứa ngu, nhìn bản vẽ cũng không biết chọn đúng nguyên liệu gia công chứ gì?

Song lại cúi xuống bới bới những thanh sắt, và để giấu một nụ cười:

-                     Tùy em. Rồi ra em sẽ không quy kết anh vào cái tội coi thường phụ nữ đâu!

Thư vừa tức vừa thương, vừa phục Song. Biết không thể xoay chuyển được người yêu, Thư dắt xe ra thẳng cổng nhà máy. Qua cổng, Thư lên xe phóng vội vã, đi tìm mua cho Song một cái gì ăn để đỡ khát. Ít phút sau Thư quay lại, đưa cho Song túm nhãn lồng trong cái túi xách bằng vải dù pháo sáng. Song mỉm cười, đỡ túi nhãn đặt lên những thanh sắt mà anh đã chọn.

-                     Cảm ơn Thư. Nửa giờ nữa anh sẽ ăn. Chỉ mười lăm phút anh “giải quyết” xong túm nhãn này thôi. Và như vậy là vừa đúng giờ làm việc chiều.

Thư không vờ cáu nữa. Có cáu thật cũng chẳng bảo được anh ấy, huống chi cáu giả vờ. Thư đứng lặng nhìn Song làm việc, mí mắt chớp liền liền. Có phải vì chói nắng mà nước mắt mình chảy ra không nhỉ? Thôi, không đứng đây nữa, anh ấy nhìn thấy tưởng mình khóc.

Ra phòng thường trực ngồi nghỉ, Thư mới tự nhận là mình đã rơm rớm nước mắt vì thương Song vất vả.

*          *          *

Cuộc họp Đoàn không còn giữ được trật tự như lúc vừa khai mạc. Bí thư Chi đoàn cũng không chiếm được độc quyền nói nhiều nữa. Một thanh niên dong dỏng cao, không xin phép chủ tọa, cứ đứng lên phát biểu. Anh nói trôi chảy như đã chuẩn bị ý kiến rất tỉ mỉ từ lâu rồi. Hai bàn tay anh thì cứ vặn vẹo chiếc mũ lưỡi trai; dường như anh cố ghìm nỗi xúc động, không để kéo mình chệch khỏi ý định cũ:

-                     Ban kỹ thuật nhà máy công bố như vậy là đúng, là cần thiết. Nhưng tôi nghĩ, chúng ta cần rút ra một kết luận khác nữa, mà không mâu thuẫn với cái kết luận của nhà máy. Chiếc máy xếp tôn ấy nâng năng suất tăng 125%, nhưng 125% này nói cái gì? Chúng ta mới chỉ nói công việc sản xuất được tiến hành nhanh hơn thôi, chứ chưa nói đến cái vất vả khó nhọc mà do có chiếc máy ấy, anh chị em chúng ta không phải chịu nữa. Từ bao năm nay, chúng ta cứ phải xếp những lá tôn có cạnh sắc như dao ấy bằng hai bàn tay, công việc đơn giản nhưng đầy vất vả. Bây giờ chúng ta đã cải tiến phương pháp làm ăn rồi, song cải tiến được nó thì có đơn giản đâu…

-                     Rất đồng ý! Đồng ý!...

Nhiều tiếng nói phụ nữ đế thêm vào.

Người thanh niên dong dỏng cao ấy ngồi xuống, bất ngờ như khi anh đứng lên.

Cuộc họp bớt ồn ào khi Phó bí thư Chi đoàn nói như tự phê bình:

-                     Chúng ta cần có một bài trên bích báo, không phải chỉ để biểu dương đồng chí Song. Biểu dương không khó gì. Chúng ta phải nói lên một vấn đề quan trọng hơn. Chiếc máy xếp tôn đáng phải ra đời sớm, nếu Chi đoàn đi đến quyết định xin nhà máy bố trí sắp xếp cho đồng chí Song được rảnh rang thì giờ, và cử thêm một vài người giúp việc nữa. Đây không phải là phương pháp làm việc, mà là chuyện chúng ta có mạnh dạn ủng hộ sáng kiến không, có nghiên cứu kỹ lưỡng những đề nghị cải tiến của anh em không. Làm việc đơn độc bao giờ cũng khó hơn, mệt hơn, ít kết quả hơn làm việc trong không khí chung nghĩ, chung lo…

-                     Đồng chí Song không đơn độc đâu ạ!

-                     Đồng chí Thư giúp đỡ đồng chí Song nhiều đấy ạ!

-                     Đề nghị biểu dương cả đồng chí Thư nữa ạ!

Mặt Thư nóng lên. Quái thật, sao họ lại đưa mình vào chuyện này? Phó bí thư Chi đoàn đang nói một vấn đề nghiêm chỉnh như vậy mà họ đùa được ư? Bậy bạ thật!

Chung quanh Thư, tiếng cười nổi lên rúc rích.

Song ngồi bình thản bên cạnh Phó bí thư Chi đoàn. Nom anh chẳng có gì bối rối, ngượng nghịu trước những lời khen. Những lời khen thẳng thắn, thật thà, đôi khi có hơi quá lên một tí, thì cũng là do nỗi vui mừng của họ trước sự thành công của đồng chí mình.

Thư nhìn Song, vụt nghĩ: Phó bí thư Đoàn nói đúng. Nhưng sao anh Song không đề nghị xin người cùng làm với mình. Có thể anh ấy sợ ảnh hưởng kế hoạch sản xuất của phân xưởng. Nhưng sao với mình, anh ấy cũng không nói đến chuyện cần thêm người làm cái máy cho chóng hoàn thành?

Tối hôm ấy, Thư đã hỏi Song điều cô thoáng thắc mắc trong buổi họp sau giờ sản xuất chiều.

Gió từ mặt nước hồ Tây dâng lên từng đợt. Trong làn gió mát còn lẫn chút hơi nóng hè, chưa kịp tan đi. Mặt nước hồ khi thẫm lại khi sáng lên dưới ánh sao đêm.

Song không trả lời ngay câu hỏi của Thư. Anh lặng lẽ nhìn người yêu đắm đuối; đến nỗi cô phải thẹn, khẽ nghiêng đầu giấu mặt về phía bóng tối của cây liễu sát kề cái ghế họ ngồi.

-                     Có lẽ Thư nghĩ anh chơi trội?

Đáng lẽ phải trả lời thì Song hỏi lại. Câu hỏi của anh khiến Thư lúng túng. Thư có thoáng nghĩ thế thật, nhưng không dám nói lên ý nghĩ của mình. Nói như vậy với người yêu đâu phải dễ. Thư không dễ rũ ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Thư muốn thanh thản. Chính vì thế, vừa ngồi xuống chiếc ghế đá quen thuộc như của riêng mình, Thư đã hỏi Song. Song nhận thấy trong câu hỏi của Thư có cái gì không bình thường, khác hẳn những lần họ đến đây. Trước đó, hễ ngồi bên nhau là họ nắm tay nhau, cùng im lặng. Im lặng lúc lâu rồi mới thấy họ thốt ra những câu gần như vu vơ: Trời đẹp anh nhỉ? Hoặc: Hôm nay báo động hai lần anh nhỉ?...

Để Thư bớt sốt ruột, Song nói:

-                     Anh không chơi trội đâu. Từ khi tốt nghiệp, về nhà máy công tác một năm nay, ít ra anh cũng được nhiều người cho là: Trung cấp èng èng, hiểu biết không bằng ai, làm lụng cũng chẳng bằng ai. Thế thì làm sao anh có thể chơi trội?

Thư lắng nghe Song nói. Giọng anh ấy ra chiều cay đắng. Cay đắng bởi cái sự thành kiến. Thành kiến ấy có thể đã làm anh ấy ngầm ngầm tự ái.

-                     Vậy mà anh không hề phản ứng nhé. Anh sẵn sàng nhận mọi việc người ta phân công cho anh. Và anh đã làm trọn bổn phận của anh. Còn cái máy xếp tôn? Đó là một chuyện khác! Không ai phân công anh làm cái máy đó. Nói cho cùng, chẳng ai nghĩ đến việc ấy. Đã không nghĩ đến thì phân công sao được. Còn anh, anh muốn hoàn thành nó, như anh đã nghĩ ra nó. Còn việc xin thêm người, nhỡ ra không mang lại kết quả như mong muốn thì sao? Bởi thế, anh tránh đề đạt xin người. Ở tình thế như anh, nếu là em, em có dám chơi trội?

Hai mắt Thư long lanh. Thư đã hoàn toàn gạt bỏ được ý nghĩ không đúng về Song. Anh ấy như nhiều người khác, ban đầu chưa dám tin ngay mình sẽ thành công. Anh ấy mới chỉ có quyết tâm để thành công. Trong trường hợp đó, anh ấy không đề nghị xin thêm người là phải.

Thư chưa kịp trả lời, Song đã lại hỏi:

-                     Em nghĩ thế nào mà hỏi anh thế?

-                     Không hẳn em đã nghĩ như vậy. Ý nghĩ ấy chợt đến với em… mơ hồ thôi.

-                     Mơ hồ chẳng hay em ạ. Cái gì cũng cần rõ ràng cụ thể. Rõ ràng, cụ thể, như anh đang nắm tay em đây này, và em đang ngồi sát anh đây này.

Liền đó, họ ghì chặt lấy nhau

            *          *          *

            Tại sao, tại sao Song không tham gia sửa chữa máy “voi”? Máy “voi” hỏng, khâu đột dập ngừng thì toàn bộ dây chuyền sản xuất của cả nhà máy cũng phải ngừng hoạt động.

            Nhiều cán bộ kỹ thuật và thợ giỏi đã bàn bạc tìm cách sửa chữa cỗ máy dập năm mươi tấn ấy. Song không tham gia, tại sao?

            Bí thư Chi đoàn hỏi Thư: Tại sao? Anh cũng đã nói chuyện với Song. Song bảo Song mệt, vả lại phần việc phân xưởng giao cho Song cũng đã nặng rồi.

            Anh chị em thanh niên xì xào: Lý do gì thằng ấy không tham gia? Song nó từ chối, hẳn có mắc mứu?...

            Chưa ai quên những ngày qua, Song đã làm việc miệt mài đến cả tháng trời, để cho ra đời chiếc máy xếp tôn. Không lẽ một người như Song lại lạnh nhạt trước việc sửa chữa máy “voi”?

            Thư lặng thinh hồi lâu. Những điều Bí thư Chi đoàn hỏi Thư, cũng là những điều cô định hỏi Song. Hai ngày nay Song ít nói quá. Thư lại bận giúp Thảo - cô bạn thân - sửa soạn gấp cho chuyến đi xa dài ngày, nên chưa hẹn dạo chơi với Song được.

-                     Tôi cũng không hiểu tại sao? - Thư trả lời Bí thư Chi đoàn.

Và như để khỏi phải rào đón, Thư nói luôn:

-                     Tôi chỉ sợ có ai đã nói gì để anh ấy chạnh lòng. Tiếng thế, anh ấy hay tự ái.

Bí thư Chi đoàn cau mày:

-                     Sao lại có chuyện tự ái trong vấn đề này?

Thư khẽ thở dài:

-                     Ấy là tôi nói thế. Khi anh ấy vừa về nhà máy, anh ấy đã rất khó chịu vì vài lời nói không đâu: Kỹ thuật trung cấp không bằng thợ bậc hai. Hãy chờ xem thằng ấy múa may thế nào?... Nhận xét thế chưa hẳn là sai; nhưng chỉ đúng với người này, mà không đúng với người khác.

Nghe Thư nói, Bí thư Chi đoàn càng sốt ruột. Phần nào Thư có bênh Song? Yêu nhau, bênh nhau là lẽ thường. Nhưng phải bênh cái đúng, không được bênh cái sai. Đoàn viên mà khó chịu trước một dư luận không đúng, rồi không chịu làm việc hết sức mình, phải đâu là điều có thể xem thường, cho qua. Vả lại, những chuyện xì xào về Song đã là chuyện cổ tích rồi. Từ khi Song hoàn thành cái máy xếp tôn, ai ai cũng khen cậu ta, nhất là cánh nữ.

-                     Thư có biết Song mắc mứu cái gì không?

Thư lắc đầu:

-                     Không!

-                     Cần phải phát hiện chính xác nguyên nhân khiến cậu ta mắc mứu. Nếu cậu ta mệt thì chẳng nói làm gì. Ngoài lý do sức khỏe, tôi nói thật, không có lý do gì cho phép cậu ta đứng ngoài công việc sửa chữa cỗ máy “voi” lúc này.

Thư hoàn toàn đồng tình với Bí thư Chi đoàn. Nhưng Thư vẫn hỏi một câu, không phải để bào chữa cho Song, nếu như Song có khuyết điểm, mà cốt để Bí thư Chi đoàn bớt nóng nảy.

-                     Sao bảo công việc này phân xưởng chỉ kêu gọi tinh thần tự nguyện, không ép buộc ai?

Bí thư Chi đoàn nhìn Thư, như để phát hiện xem Thư có đồng tình việc vận động Song tham gia sửa chữa chiếc máy dập hay không.

-                     Đồng chí cho rằng, đoàn viên có thể dứng ngoài cuộc vận động do Chi đoàn và Công đoàn tổ chức à? Trong việc này, chúng ta kêu gọi tinh thần xung phong, nhưng là đoàn viên thì không thể không xung phong.

Thư cười. Ông này hắc thật. Tính ông ấy nóng như lửa, cái gì cũng đẩy lên thành nguyên tắc.

-                     Tôi chưa kịp nói gì với anh ấy. Còn việc sửa chữa máy “voi”, tôi không trực tiếp làm được gì, nhưng tôi chả bàng quan đâu.

-                     Tôi cũng nghĩ thế - Giọng Bí thư Chi đoàn dịu đi - Nghĩ thế nên tôi mới tìm gặp Thư để hỏi xem sự thể ra sao.

*          *          *

            Cho dù rất lâu rồi Song mới nhận được thư Kim, nhưng anh vẫn chưa vội đọc. Song cần “ưu tiên” đọc trước tờ giấy Thư gửi, lúc anh vừa dắt xe ra khỏi cổng nhà máy.

            “Anh! Đúng tám giờ tối nay em muốn đi chơi cùng anh. Em muốn nghe anh nói chuyện dài dài, để bù vào mấy tối trước em bận việc nhà. Với lại, em cũng sẽ nói với anh một chuyện quan trọng!

Em yêu của anh

Thư”.

            Song đọc đi đọc lại ba lần những hàng chữ viết trên mảnh giấy. Ba lần anh hơi cau mày, rồi lại mỉm cười ngay. Cô bé ơi! - Song gọi thầm người yêu như vậy. Chuyện quan trọng cô bé định nói, anh biết rồi. Chẳng có gì quan trọng đâu. Nhưng chúng mình gặp nhau, dù không nói chuyện gì quan trọng thì cũng đã quan trọng và cần thiết lắm, cô bé ạ!

            Song đến chỗ họ vẫn ngồi với nhau, chậm mười lăm phút. Trên đường đi Song đã nghĩ Thư sốt ruột.

-                     Em đã định chờ năm phút nữa, không thấy anh thì về.

Song mỉm cười khi thấy Thư phụng phịu.

-                     Biết thế, anh đi chậm thêm bốn phút nữa.

Thư ngồi im lặng khá lâu, gần như quên nói với người yêu câu chuyện quan trọng. Chính Song đã bắt đầu câu chuyện quan trọng ấy bằng một giọng vui vẻ:

-                     Em hỏi anh về chuyện cái máy “voi”, đúng không nào? Mà em muốn biết lý do anh không tham gia chữa chạy nó chứ gì?

Thư khẽ đáp gọn một tiếng:

-                     Vâng!

Song không giải thích ngay. Anh nắm tay cô bé của anh. Bàn tay nho nhỏ ấy, gần đây đã bớt sần sùi.

-                     Anh nói với em thế nào nhỉ? Giá những lúc được ngồi sát bên nhau như thế này, không phải nói chuyện ấy vẫn hơn.

-                     Em chả thấy hơn gì cả. Chẳng lẽ anh và em không nói với nhau điều mà mọi người trong phân xưởng đang bàn tán về chúng ta?

-                     Họ bàn tán những gì? Thế mà anh không biết đấy!

-                     Có thật anh không biết?

-                     Không hẳn là anh không biết. Anh biết từ trước lúc anh từ chối tham gia việc ấy cơ. Nghĩa là anh đoán được điều mà em gọi là dư luận xì xào.

-                     Thế anh nghĩ thế nào mà anh chả nói với em. Hai hôm nay anh lầm lì làm sao ấy.

-                     Hai hôm nay anh bận lên phòng Kế hoạch đối chiếu sổ sách và nhận chỉ tiêu định mức cho quý sau. Rặt những con số là con số, con số nào cũng quan trọng cả.

Song nhấn mạnh hai tiếng “quan trọng” với một giọng bông đùa, ẩn ý mỉa mai. Thư nhận ra giọng nói khác thường ấy. Và, lần đầu tiên kể từ ngày hai người yêu nhau, Thư nhấn giọng nói với Song:

-                     Con số quan trọng một cách, việc anh không cùng mọi người sửa chữa chiếc máy dập lại quan trọng một cách…

Song nói chen vào, cốt để ngăn cơn cáu giận của Thư có thể bùng lên, khi cô đang đà bày tỏ ý nghĩ mình:

-                     Nghĩa là cả hai việc đều quan trọng cả. Nhưng thôi, em hãy nói chuyện mà em cho là quan trọng đi. Và, quan trọng nhất là em đừng cau có với anh nhé!

Biết ngay mà - Song nghĩ bụng - thế nào cô bé cũng phải cười. Điều ấy rất quan trọng đối với mình. Bây giờ thì mình cứ thong thả trả lời những thắc mắc của cô bé. Hẳn mấy tay trong Ban chấp hành Chi đoàn đã “phát động” cô bé rồi đây!

-                     Có ai bàn với anh việc sửa chữa máy “voi” không?

-                     Tất nhiên là có chứ. Anh là cán bộ kỹ thuật, họ phớt anh sao tiện.

-                     Nhưng ai bàn với anh?

-                     Đủ cả bộ tứ phân xưởng.

-                     Anh trả lời các anh ấy thế nào?

-                     Em hỏi cung anh đấy à? Việc này không phải việc của em. Anh không muốn nói với em chỉ vì không muốn em biết kỹ làm gì.

-                     Anh nói như vậy là nghĩa làm sao?

-                     Chẳng có gì khó hiểu cả. Chuyện anh và em là chuyện tình yêu. Còn với họ là chuyện công việc. Tình yêu khác. Công việc khác. Do đó, em không cần biết anh trả lời họ như thế nào. Em chỉ cần biết vì sao anh không can dự vào việc sửa chữa chiếc máy “voi” kia là đủ rồi.

Không để Thư hỏi thêm, Song nói một hồi. Càng nói, giọng anh càng sôi nổi. Anh tin Thư sẽ đồng tình với cách nghĩ, cách xử sự của anh.

Tại sao anh phải nhúng tay vào một việc vốn không phải của anh. Tại sao những người phụ trách phân xưởng lại xung phong hăng hái nhận sửa chữa chiếc máy ấy, mà vốn nó không phải việc của phân xưởng. Họ hám thành tích, tuy họ tuyên bố rằng thành tích ấy là của toàn phân xưởng. Không có sự xung phong hăng hái ấy, dễ nhà máy chịu để cái máy “voi” nằm chết mãi?

Say sưa nói lên ý nghĩ của mình, Song không nhận thấy những nét ngơ ngác hiện dần trên khuôn mặt người yêu.

Thư không ngờ Song nghĩ thế; những ý nghĩ mà lần đầu tiên, kể từ ngày yêu nhau, Thư mới nghe Song nói.

-                     Em không hiểu anh trong việc này, nó trái ngược với việc làm trước của anh. Trước kia chưa lâu, anh đã không quản khó khăn mệt nhọc, tự suy nghĩ thiết kế và tự thi công chiếc máy xếp tôn, được cả phân xưởng hoan nghênh, nể trọng. Nay xảy sự việc này, nhiều anh chị em ngờ rằng lãnh đạo đối với anh có điều gì không đúng, khiến anh lảng tránh một việc có liên quan trực tiếp đến chuyên môn của anh.

Song búng tay kêu “tách” một cái:

-                     Mọi người nhìn nhận thế nào, mặc kệ họ. Anh chả có gì phải áy náy, cũng không cần thanh minh những điều xét ra, có thanh minh cũng vậy thôi. Còn em thì khác, em cần hiểu anh…

Thư không muốn Song ngừng lại nhìn mình, như có ý thăm dò mức độ phản ứng của mình ra sao.

-                     Anh nói đi! Anh nói hết đi! - Giọng Thư giục giã.

-                     Em đừng sốt ruột. Anh hỏi em, tại sao anh phải lao vào công việc này? Việc sửa chữa máy “voi” không phải việc của anh, điều ấy rõ rồi. Nếu thực là việc của anh, tất anh phải làm, không làm không yên với chính lương tâm mình. Còn cái máy xếp tôn? Anh không ngờ em vô tình như vậy. Ngay lúc này anh vẫn không muốn nói lý do vì sao anh lại lao vào chế tạo cái máy xếp tôn. Nói ra có vẻ kể công với em. Anh tưởng, nhìn anh làm việc em có thể hiểu vì sao chứ? Không ai ra lệnh cho anh làm việc ấy. Làm việc ấy, anh không hề nghĩ đến những lời khen ngợi, mặc dù nhiều người đã khen anh. Anh làm việc ấy chỉ là vì em. Đã bao ngày hai tay em phải chịu sứt xẹo vì những lá tôn có cạnh sắc như dao ấy. Nên anh phải có trách nhiệm với em… Tại sao em lại nghĩ rằng, anh cần xung phong chữa máy “voi”, như đã tích cực chế tạo chiếc máy xếp tôn?

Song ngừng lại nắm tay Thư. Anh cảm thấy thương thương cô bé của anh, sao mà ngờ nghệch ngây thơ. Chả thế mà một năm nay, cô bé cứ chịu làm cái việc không cần nghề nghiệp và gần như linh tinh ấy, trong khi bao người đã thoái thác nó. Anh yêu Thư, anh phải vạch cho Thư thấy, sống không thể cứ nhận thức một chiều như vậy.

-                     Em hãy trả lời những ai hỏi em, tại sao anh không can dự vào việc sửa chữa máy “voi”, là anh bận. Thế thôi! Không làm việc ấy, anh cũng chẳng có thì giờ chạy rông hoặc ngồi la cà quán xá đâu.

Thư lắc đầu như để dứt khoát không chấp nhận ý kiến của Song:

-                     Em không đồng ý cái lý như vậy. Bận thì mọi người đều bận. Anh xem có ai chạy rông không nào?

-                     Vậy thì họ cứ việc làm những việc họ muốn. Còn anh, anh chỉ làm những việc anh không thể không làm.

Thư nhắm mắt lại hồi lâu; khi mở mắt ra, vẫn thấy mặt hồ tăm tăm một màu tối. Phút chốc, Thư không nhìn thấy sao, không nhìn thấy cả ánh đèn lung linh mặt hồ.

-                     Không phải em không biết anh làm chiếc máy xếp tôn là vì em. Em không vô tình như anh trách. Nhưng em không nghĩ anh làm chiếc máy ấy chỉ vì một mình em; còn vì mọi người, vì cả cái tập thể phân xưởng này, nhà máy này.

-                     Đúng, không phải anh làm cái máy ấy chỉ cho riêng em dùng. Nhưng làm cái máy ấy, anh chỉ nghĩ đến em. Em cho nghĩ như vậy là chưa đủ sao?

Câu hỏi của Song buộc Thư phải nói rõ điều mình nghĩ, không chút e dè.

Thư không ngờ những tiếng “tập thể”, “vì mọi người” Thư nói ra đã làm Song bực bội. Từ nỗi bực bội ấy, một ý nghĩ cay đằng trào lên khiến Song bàng hoàng: Ta yêu cô ấy như vậy là chưa đủ sao? Cô ấy cần ở ta điều gì nữa đây. Ở cô ấy, có một cái gì đó còn cao quý hơn tình yêu! Tại sao mình và cô ấy lại rơi vào “tình thế sách vở” như thế này. Nếu tối nay ta đầu hàng, ngày mai tham gia sửa chữa máy “voi”, thì rồi ta sẽ như thế nào? Ta sẽ còn phải chiều cô ấy đến độ nào nữa. Và mấy tay lãnh đạo phân xưởng cần gì ta, chỉ việc nói với cô ấy; cô ấy lại hẹn ta ra đây nói: Một chuyện quan trọng (!) Ta lại phải đương đầu nhận những việc vốn không phải của ta. Cứ thế, tình hình sẽ còn phát triến đến mức, ta sẽ là một “cái đích” cho bao chuyện cười: Anh chàng lạc hậu ấy nhờ được người yêu nên mới tiến bộ! Đó có phải là tình yêu cao quý?

Mặt Song vẫn nóng bừng bừng, nhưng cứ phải im lặng nghe giọng nói dịu dàng của Thư, còn nội dung câu chuyện thì thật là khó chịu.

-                     Thế là chỉ vì anh sợ tay em xấu, mặt em đen, nên cố làm ra cái máy xếp tôn. Còn những việc khác cần cho nhà máy, cần cho tập thể, thì anh ngại. Em không muốn như thế!

-                     Em khuông muốn như thế nào? - Song không im lặng nữa, anh ngắt lời Thư.

-                     Em không muốn anh chỉ nghĩ vì em.

-                     Thế có nghĩa là em muốn anh xung phong nhận sửa chữa máy “voi” ngoài giờ với họ?

-                     Em không muốn ép anh!

Song đứng phắt dậy. Thế này thì quá lắm! Cũng như Thư, phút chốc anh cảm thấy có một cái gì rất xa lạ đã đến với anh. Thư không còn là Thư, mới hôm nào nói với anh những điều khác hẳn Thư vừa nói. Sáu tháng nay, kể từ lúc hai đứa nhận ở nhau những lời âu yếm, Song không hề nghĩ rồi đây có ngày anh và Thư phải nói với nhau câu chuyện như chuyện này. Em không muốn ép anh - nghĩa là thế nào? Cả đến việc mình chiều cô ta, cô ta cũng không muốn. Cô ta muốn người yêu nhất nhất phải suy nghĩ như cô ta? Điều ấy rõ rồi, không cần gặng hỏi. Nhưng sao ta lại phải nghe theo người khác. Tại sao không phải là ngược lại?

-                     Em bình tĩnh, không nên nói với anh như vậy. Anh yêu em thật, nhưng không phải vì thế em có thể tùy tiện lên án anh. Em không hiểu những điều em đang nói. Những điều em đang nói chẳng qua là em học được ở miệng người khác!

Đến lượt Thư đứng phắt lên. Hai người nhìn nhau, qua ánh điện vàng đục, vừa như ngỡ ngàng, vừa như giận dữ, lại vừa như thương xót. Nhưng cả hai đôi mắt ấy không hề hiện một nét hối hận nào về những điều họ đã nói với nhau.

Sau đó, hai người còn hẹn gặp nhau nhiều lần trên cái ghế đá quen thuộc bên gốc liễu, gần tượng Lý Tự Trọng. Nhưng họ không thể làm lành được với nhau…

*          *          *

             Kim thân!

            Tao rất không bằng lòng khi đọc thư mày. Hiện nay tao chưa yêu ai. Tao rất khổ khi phải xa Thư. Nhưng tao sẽ khổ hơn nếu như tao còn kéo dài mối quan hệ ấy.

            Đây không phải chuyện kén cá chọn canh, hay như mày nó, tao thích mấy cô công nhân vừa đi Hungary về. Mày nhặt ở đâu ra cái tin bậy bạ ấy?

            Thư không hiền như tao nghĩ, như có lúc mày đã ca tụng, tuy cô ấy vẫn dịu dàng như trước. Rất khó nói để mày hiểu. Tóm lại, chúng tao không hợp “gu” nhau, nói theo kiểu khác là, chúng tao không cùng một quan niệm về cuộc sống.

            Mày và Thảo thế nào?

            Thảo có tìm cách “vặn đinh ốc” tư tưởng mày không? Mong rằng hai người hợp được nhau!

Hà Nội, ngày…

Nguyễn Song

          

            Hà Nội, ngày…

            Thảo ơi!

            Nhận được hai thư của Thảo nhưng không trả lời ngay. Không phải vì bận đâu. Bận thì bao giờ chẳng bận. Mình rất không muốn nhắc đến chuyện Thảo hỏi mình.

            Mình và Song sao lại thôi nhau? Thảo chỉ biết chuyện cái máy xếp tôn thôi thì chưa đủ. Khi Thảo đi rồi, giữa anh ấy và mình xảy ra một chuyện, một chuyện rất là không hay. Không phải chuyện ghen tuông hờn dỗi đâu. Khi nào Thảo học xong, về lại nhà máy, mình mới có thể kể cho Thảo nghe đầu đuôi được. Viết những điều ấy cho Thảo, mình không đủ sức. Mình chỉ muốn nói với Thảo thế này thôi:

            Anh ấy yêu mình như người ta yêu một cái xe đạp, lau chùi nó, sắm sửa cho nó những phụ tùng tốt, giữ sao cho mưa nắng không làm nó bạc màu sơn và tróc nước mạ.

            Những mâu thuẫn của chúng mình tưởng như chỉ là một vài điều khác tính khác nết, nhưng không phải.

            Thảo hãy tin ở mình. Mình không phải là đứa lăng nhăng, Thảo biết đấy.

            Khổ nhất là hằng ngày mình vẫn phải làm việc với cái máy xếp tôn ấy…

Bạn của Thảo.

Lê Thị Thư

1971

 

  

Trận địa vòng ngoài

 

Có cái trận địa phòng không bên nhà, lão Cần vui hẳn lên. Ngày ngày lão không còn phải con dao với nắm nan tre, lang thang tha thẩn khắp làng, tìm bạn già hoặc lũ trẻ con để mà chuyện phiếm. Ở cái trận địa phòng không có khối việc cần đến lão mó tay; gọi là giúp đỡ, gọi là tham gia, đều đúng cả.

Trước hết, phải  nói chỗ đặt trận địa này này, lão Cần không thông thì đừng có chuyện xong. Lão thông là thông thực, chứ không phải thông mồm thông miệng. Chẳng thế, mấy anh cán bộ đến nhà vừa hé tí, lão đồng ý ngay. Là vì lão Cần nghĩ kỹ rồi. Lão nghĩ ngay từ dăm hôm trước, lúc mấy anh cán bộ trên huyện trên xã qua lại thăm dò địa điểm cơ. Nhìn các vị đo đạc, đánh dấu, lão biết chắc trận địa đặt gần ngay mảnh vườn của lão. Trận địa đặt đấy, những hàng cây ăn quả trong vườn nhà lão phải phá đi thì tầm nhìn mới không bị khuất. Phá đi, chỉ hơn tháng nữa, lão mất đứt món tiền khơ khớ. Nhìn những cây nhẫn lủng liểng quả non, bỗng chốc bị chặt bỏ, ai không tiếc đứt ruột. Ví lão cố tình không bằng lòng chịu thiệt thì có thiên lôi ép được lão. Lão hiền lành thật đấy, nhưng đừng tưởng lão ngu. Cái bằng Tổ quốc ghi công treo trong nhà kia kìa, và thằng con trai thứ hai của lão đang chiến đấu trong B nữa, cứ chơi vào hai cái bùa thiêng ấy xem! Mấy lại, nên nhớ bây giờ là thời dân chủ, tức dân làm chủ nhé; phải đâu thực dân đế quốc, ép buộc thế nào dân cũng phải chịu.

Nhưng mà lão bằng lòng đấy, các anh ạ. Lão có thiệt thòi chút ít vẫn cứ bằng lòng. Đặt súng chỗ ấy thật là đắc địa. Có thế các vị mới cần, chứ không đê điều kia thiếu gì chỗ đặt. Phải cái, những đoạn đê ấy, chỗ nào cũng san sát làng trại như bưng lấy mắt, thì đánh đấm thế nào được.

Cứ đặt trận địa ở đấy, các anh ạ. Cốt sao sớm trừ được lũ giặc lái máy bay là lão mừng. Còn nó thì rồi mồ mả tổ tiên cũng đến bật lên hết. Khu Bốn, Văn Điển, bao nhiêu là nghĩa trang bị chúng nó bom tan hoang đấy thôi. Chúng nó cũng là người, sao mà ác thế? Nên lão phải có trách nhiệm góp phần tiêu diệt cái ác ấy đi. Lão sẵn sàng chặt phá hết cả vườn cây cũng được. Thôi thì, người làm ra của, chứ đâu phải của sinh người. Còn người là còn tất cả!

Hiềm một nỗi, cái con Mẫn hóa ra đoảng. Rõ nó cũng đi “củ soát” trận địa với họ, nó chỉ cần một câu với bố là xong. Nhưng không, nó lại đẩy mấy anh cán bộ cấp trên đến, như là vận động mình, giải thích mình. Làm như bố nó “lô cốt” lắm ấy. Thành thử, rõ tức nó mà lão cứ phải cười trước mặt người ta. Không biết rồi ra nó chỉ huy đánh đấm sao đây?

Gì thì gì, không có bàn tay lão mó vào, thả mặc nó, khối việc lại không bê bết ấy à. Ngay như cái đêm đào trận địa ấy, ai lại nóng nực là thế, nó chẳng có kế hoạch nước non cho người ta uống. Làm được một lúc, các tướng khát nháo cả lên. Lão Cần vội đưa ngay ấm chè xanh của nhà ra, rồi về nấu luôn nồi mười nước vối nữa. Nước vối nhà lão cứ gọi là ngọt lịm. Là nhờ cái giống vối tốt. Còn do lão khéo ủ nữa. Nấu xong, lão vợi ra đôi thùng gánh nước khuệnh khoạng quẩy ra chỗ đào công sự. Lão múc ra từng bát cho chóng nguội. Tay nào khát, cứ việc uống. Đừng có nghĩ lão pha nước lã. Yên trí, vệ sinh lão học thông rồi.

Đấy, thử không có lão xem. Cứ tính mỗi tay khát, bỏ vào làng tìm uống, ra được, ít cũng mất tiếng đồng hồ. Nội đêm đòi đào xong trận địa à? Mình mắng nó để người ta khát là cốt bổ khuyết cho nó thôi, lại còn ra cái điều tự ái

-                     Kệ con! Bố về ngủ đi!

Lão Cần có phần hơi giận. Lão định kệ bỏ về, nhưng lại thôi. Việc đâu của riêng nó. Việc là việc nước, việc làng. Cái Mẫn tự ái, có thể do lão nhắc con chưa thật khéo. Con gái, đứa nào cũng thích ngọt, thích nịnh ấy mà.

Kệ!... Lão mà kệ thì không chỉ việc ấy, ngay cái việc nhà con Thuần cũng lắm lôi thôi. Không có lão, thử xem con Thuần có phải bỏ trực chiến mà về dỡ khoai không. Sáng sớm, bà mẹ con Thuần đã chống gậy ra trận địa mắng con xơi xơi, rồi hỏi cái Mẫn:

-                     Khoai nhà tôi bị ngập nước mưa, không dỡ ngay, hỏi mẹ con tôi có thiệt không hả cô Mẫn?

Con Mẫn hứa tối sẽ thu xếp. Bà cụ nguây nguẩy:

-                     Không! Không tối với mai gì cả. Cứ là con Thuần phải về ngay sáng nay. Có mấy thước ruộng phần trăm, trồng ít khoai chăn nuôi, tôi chỉ xin các chị một ngày. Xong việc, các chị muốn phòng không phòng có đến bao giờ thì phòng. Tôi là tôi dứt khoát như thế!

Mặc con Mẫn van nài, bà cụ vẫn không nghe. Hai ngày trước bà đã nói với con Thuần việc ấy, nó chỉ ậm ừ. Bà có hay đâu con Thuần không nói với Mẫn. Nó định chờ cô chị đi tập huấn cứu thương trên huyện về giải quyết. Chẳng hiểu sao quá hạn ba ngày nay chưa thấy cô chị về.

Nghe tin, lão Cần đang trần trùng trục ngồi đan sọt bên gốc nhãn đầu nhà, vội khoác áo chạy ra trận địa. Đến nơi, tay lão hãy còn cài dở hàng cúc áo. Lão hỏi bà mẹ Thuần:

-                     Có chuyện gì đấy, hả bà chị? Ôi, bà chị ốm yếu thế mà còn ra đây làm gì. Bà chị ngồi xuống đi, kẻo mệt. À, ngồi chỗ đằng này gần hầm hố trú ẩn, có máy bay còn kịp xuống.

Lão Cần cầm tay bà mẹ Thuần dắt khỏi chỗ con Mẫn. Là lão có ý hẳn hoi. Để bà đứng sừng sững đối chất với con Mẫn, máy bay Mỹ xộc đến thì đánh đấm làm sao được. Nghe bà mẹ Thuần kể lể đầu đuôi công việc, lão cười ha ha:

-                     Việc ấy có gì khó khăn đâu, bà chị!

-                     Ông bảo không khó khăn à? Lấy ai dỡ cho tôi chỗ khoai ấy?

Lão Cần vẫn cười:

-                     Vâng! Việc dỡ khoai của bà chị khó khăn nào bằng, quan trọng nào bằng việc chúng nó đang đứng trực chiến ở đây?

Bà mẹ Thuần lặng im, lão tiếp:

-                     Thôi nhé! Bà chị về nghỉ đi, kẻo mệt. Hứa với bà chị, chiều nay chúng tôi sẽ cử người đến đỡ chân đỡ tay giúp bà chị.

Bà mẹ Thuần lưỡng lự.

-                     Sao, bà chị không tin à? Vậy tôi thay mặt trung đội nữ dân quân trực chiến hứa bảo đảm với bà chị cái việc dỡ khoai.

Bọn con gái bưng miệng cười rúc rích. Cười to sợ lão Cần mắng là vô duyên, là không nghiêm. Lão nói thay mặt mà chẳng hề bàn bạc với ai, và chẳng ai giao nhiệm vụ cho lão. Cũng như mọi việc làm trước đây cho cái trận địa này, lão đều tự động cả. Ai dám giao việc cho lão chứ. Bởi lão có phải biên chế của trung đội trực chiến này đâu. Thế nhưng, mọi người trong đơn vị chẳng những không bắt bẻ lão, mà còn nể lão, mến lão.

Tin lời lão, bà mẹ Thuần ra về.

Hừ, thế mà cái con Mẫn lại còn không bằng lòng với bố. Nó nói gần như gắt:

-                     Chiều nay chúng con bỏ nhiệm vụ trực chiếc về dỡ khoai à?

Lão Cần đập đập lòng bàn tay xuống khoảng không:

-                     Được! Được! Con không phải lo việc ấy!

Trưa, lão đến luôn nhà ông Đội trưởng sản xuất để trình bày. Mặc, ông ta cứ vục đầu ngồi ăn, cái thân bè bè ôm lấy cả mâm cơm. Kễnh bụng rồi, ông ta đứng dậy, thở ra thuần một giọng bửa để từ chối. Giận quá, lão Cần mắng ông ta vô tích sự, rồi tức tốc chạy đến nhà ông Chủ nhiệm hợp tác xã. Tìm mấy nơi không gặp, cuối cùng lão vớ được ông Chủ nhiệm ở giữa đường. Trong đám gồng gánh lũ lượt, ông Chủ nhiệm quần xắn cao, cũng một gánh khoai ướt sũng từ ngoài đồng về. Ông đặt gánh tiếp lão ngay bên đường, với lời mở đầu giao hẹn: Vắn tắt, vắn tắt thôi, cốt sao được việc. Lão Cần cứ phải ngửa mặt nhìn ông Chủ nhiệm, trình bày sự việc. Còn ông Chủ nhiệm thì gập người để nghe.

Ông Chủ nhiệm túm cho lão hai người gánh lúa đi qua. Thế là chỉ chiều nay xong đứt việc của bà mẹ Thuần.

-                     Cụ yên trí, tôi sẽ báo cho Đội trưởng biết việc điều người này.

Lão Cần cười ha ha như vớ được món bở to cho chính mình.

Đấy, cứ mặc con Mẫn, đừng hòng có người dỡ khoai. Dễ gì nó nghĩ ra cái kế điều người thay thế. Mà nếu nó có nghĩ được, thì việc tìm ông Chủ nhiệm Hợp tác xã cũng không dễ dàng. Thế rồi nó cũng lại chẳng bằng lòng. Bố con cứ như xung khắc ấy. Việc gì mình cũng dúng tay vào đỡ nó, là mình muốn nó bớt phần vất vả. Rồi lần nào nó cũng kiếm chuyện như để vặc lại mình. Nó hỏi:

-                     Ai bảo thày to tiếng với ông Đội trưởng?

Ai bảo à? Lòng dạ tự bảo chứ còn ai. Có mắng hãy mắng cái tay Đội trưởng ấy. Ai đời, lão nói như van, hắn mặc; lão nói như khoan tai, hắn chẳng nghe ra. Nếu kéo cái Thuần về dỡ khoai được, thì lão đã chẳng mất công đến tận nhà hắn. Hắn lại còn bảo: Thằng giặc nó thèm đánh gì quãng đê làng mình. Đường bay của nó buộc nó phải qua thôi!

Có lẽ cả đời hắn chẳng thèm đọc báo nghe đài, nên không biết đã có bao nhiêu khúc đê ở miền Bắc này bị máy bay Mỹ đánh phá. Thật là loại người thiển cận, dốt nát, chẳng nhìn xa trông rộng tí gì. Vì đường bay nó buộc phải qua? Ừ, cứ cho là nó không thèm đánh quãng đê làng này, nhưng nó bay qua để rồi bay đi đâu chứ? Bay về nước nó, hay để vào đánh Thủ đô của chúng ta? Đấy, Hà Nội kia kìa. Cứ xuôi con sông Hồng này, vài chục “cây-lô-mét” là Hà Nội đấy. Đánh Hà Nội đã có Hà Nội đánh nó! Ông Đội trưởng nói thế khiến lão Cần điên lên, lại dồn cho một trận. Lão nói to, to lắm, đến nỗi người ta tưởng xảy đánh nhau. Họ xô đến ngấp nghé đầy sân.

-                     Ông làm như ông sống không cần đến ai, ngoài vợ con ông. Cho ông hẳn một cô hầu nữa, thế cũng không sống được đâu! Hãy xem trong nhà ông có bao nhiêu thứ do ông làm ra, có bao nhiêu thứ Hà Nội đem đến cho ông? Này đây…

Lão Cần dẫn ra: Chiếc gương treo trên tường in hình tháp rùa, cái lược nhựa cài bên gương, cái phích nước, cái ấm nhôm, lọ mực, cái ngòi bút; đến bộ quần áo cả nhà ông Đội trưởng khoác trên mình để được gọi là Người… Đấy, Hà Nội đã về với gia đình ông như thế! Đấy mới chỉ là những cái vụn vặt, nhưng nó sờ sờ ngay trước mắt, kẻ ngu đần cũng phải nhận ra.

            Lão Cần chưa kể hết, không phải lúc ấy lão không nghĩ được. Lão thôi to tiếng vì có người can. Không người can, lão còn nói nữa. Lão nói để dạy cho ông Đội trưởng phải hiểu một chút về Hà Nội. Là người dân nước Việt, không thể không hiểu Hà Nội. Như lão đây, dù chẳng một ngày cắp sách đến trường, nhưng lão hiểu lịch sử Hà Nội cả xưa và nay. Lão hiểu Hà Nội kỹ hơn là hiểu cái đầu, quả tim lão. Lão hiểu Hà Nội bởi cái đầu lão biết lắng nghe. Còn ông Đội trưởng, chỉ cần ông ấy hiểu rằng, Hà Nội có Hồ Gươm, có quảng trường Ba Đình… và hàng ngàn vạn thợ thuyền đang ngày đêm làm việc không phải chỉ riêng cho Hà Nội. Thế là tạm đủ. Và lão phải nói tường tận để ông Đội trưởng xác định trách nhiệm của mình đối với Hà Nội, như Hà Nội đã đem đến rất nhiều cho gia đình ông.

            Lão không ngờ lúc ấy lão hùng hồn được như vậy. Giận quá hóa hùng hồn thì phải!

            Gặp con người thiển cận như ông Đội trưởng nọ, ai mà không tức sôi ruột. Nhưng con Mẫn vẫn cứ ý kiến:

-                     Dù sao thày cũng chẳng nên to tiếng.

Công bằng mà nói, con Mẫn khuyên bố không to tiếng cũng là phải. Chẳng lẽ nó lại khuyến khích bố to tiếng. Bố con không thật hiểu nhau, dễ cho nó là bạc. Lão không nghĩ nó bạc. Trước nay, lão chỉ thương con Mẫn vất vả. Việc nhà thì chẳng làm được là bao, nhưng việc chung, siêng nhất hạng. Suốt ngày nó đi biền biệt. Có hôm cơm chẳng về ăn. Tối thì rõ khuya mới thấy cậm cạch mò vào giường. Người ta ấn cho con bé bao nhiêu là việc. Chi ủy này, Bí thư Thanh niên này, Cán bộ dân quân này, Văn nghệ này… Như thế, gì mà chẳng bận.

Ấy, từ cái ngày xã giao cho chỉ huy trung đội trực chiến, cô nàng đỡ phải chạy, nhưng suốt ngày đêm cứ bẹp dí ở trận địa. Ai cần nó cũng phải mò đến trận địa. Họp hành, có khi các vị cũng phải đưa đến đấy cho nó dự. Họp tối còn đỡ, chứ có lần thấy họp giữa trưa, nắng ơi là nắng. Nắng như ném lửa vào mặt. Lúc ấy nhiều người mới thấy cái sự vất cả của lũ con gái trực chiến. Cứ tưởng ngồi đấy an nhàn à? An nhàn mà đứa nào cũng mệt nhoài và đen nhẻm. Thế mà có người vẫn “sắc mắc”. “Sắc mắc” cái nỗi gì?

Như việc Hợp tác xã vừa mang về được một két bia, ông này muốn, bà kia đòi, cứ ngậu cả lên; lão Cần lấng cấng đi qua, liền nhảy xổ vào dàn xếp.

Tính lão thế. Lão không ngại dính vào những việc chẳng phải nhiệm vụ của lão, cũng không can hệ đến lão hoặc người nhà lão, miễn thấy cái sự can thiệp là hợp lý hợp tình. Lão thường nói: Hợp lý hợp tình là hợp chính sách. Mọi người đồng ý lão có tinh thần xây dựng. Nhưng có người vì không thỏa mãn ý riêng, họ mắng lão. Lão mặc. Ngay khi ấy, lão chỉ cười. Lão cười là để đấu dịu tạm thời. Sau đó, thế nào lão cũng tách bạch đúng sai. Trước hết lão chẳng phải là cán bộ trong làng ngoài nước, lão chỉ là dân. Nhưng dân làm chủ, nên lão phải có trách nhiệm. Dễ chỉ riêng cán bộ mới có trách nhiệm, còn dân thì không?

Cái két bia kia, sau mấy phút nghe ngóng, lão giơ hai tay nói:

-                     Xin bà con nghe tôi ý kiến: Để thì giàu, chia nhau thì khó, ai cũng muốn tí, biết phân xử làm sao. Vậy thế này, tôi phân cho bà Bính có mặt ở đây một chai, vì cháu nó đang ốm. Còn lại, đồng chí cửa hàng đem ra trận địa ngoài kia cho trung đội trực chiến. Bà con bằng lòng chứ ạ?

Người tán thành, người yên lặng nguýt lão. Nguýt thì nguýt, chẳng sao. Chuyện này mà con Mẫn biết, khéo lại mắng lão. May thay, nó không thể rời bỏ trận địa.

Mọi ngày lão Cần thường dòm ngó cái trận địa ấy luôn luôn. Nhưng hôm ấy, mãi chiều tà lão mới mò ra, để tránh mang tiếng bởi chén rượu chén trà. Song chị em vẫn để phần lão một chai bia. Lão xua tay từ chối khéo:

-                     Cái tính tôi không thể uống ít, nó nhạt miệng ra, không chịu được.

-                     Bố già uống với chúng con cho vui thôi mà.

-                     Thì tôi đã nói rồi. Vui, tôi lúc nào cũng vui nhất, phải không nào?

-                     Bố uống cho vui thêm, bố ạ! 

-                     Các chị muốn lão vui thêm ấy à? Tốt nhất hạ một thằng tàu bay.

-                     Chúng con muốn quá chứ lị!

Chợt lão nghĩ tiếc cái trận đánh chiều hôm xưa. Một tốp máy bay cổ dài ngoẵng, theo đường sông xộc đến, đúng mũi súng đơn vị mình. Cứ tưởng giơ tay lên là có thể vít cổ chúng nó xuống được. Đứng dưới hố cá nhân gần ngay trận địa, lão Cần chắc mẩm mười mươi bọn con Mẫn sẽ chọc tiết chúng nó. Lớp này lão sẽ được tận mắt nhìn cái thằng Mỹ, xem nó khác mình thế nào mà ác tệ. Bọn con Mẫn quất lên hai loạt đạn. Ừ, rõ ràng sau hai loạt bắn thì cả tốp máy bay bốc lên cao. Cái xì khói, cái tóe lửa thành quệt đỏ lòm. Người bảo cháy, người bảo không. Người không thì bảo, nó tăng tốc bao giờ chẳng phụt khói, tóe lửa. Người bảo có thì nói rõ ràng thấy một chiếc kéo lê cái áo tơi lửa đi xa mãi… Nhưng lấy gì làm bằng chứng đúng sai. Cãi vã làm gì. Cứ coi bọn con Mẫn chưa bắn rơi máy bay là đúng sự thật. Có điều là, khi cả tốp máy bay Mỹ bốc lên cao thì bị hai quả tên lửa vụt chéo đến. Lão Cần nhìn rõ hai quả tên lửa nổ tung trên nền trời xanh; hai đám khói rõ to, vàng khè còn đọng mãi. Lão không nhìn rõ máy bay rơi, nhưng nhiều người bảo, ít ra đã có một chiếc trúng đạn. Nó rơi lả tả tại chỗ. Ừ, thế cũng là đạt. Lão tiếc là tiếc không có cái nào rơi ngay chỗ mình thôi.

Lạ cái con Mẫn, không hiểu sao lúc ấy nó cứ đinh ninh đơn vị tên lửa của anh Vĩnh - người yêu nó, bắn rơi máy bay.

    *      *          *

            Ở dưới bếp lên, nóng quá, lão Cần lăn kềnh ra nền nhà gạch. Ngực lão tẹt dính. Những cái xương sườn cứ giơ ra như hết sức sống. Ấy nhưng chớ thấy thế mà coi thường lão. Việc nhà, lão xốc vác kỳ hết. Cơm nước, con lợn con gà, lão mó tay là chính; chứ trông vào con Mẫn, chỉ bằng thừa. Lão còn nhận đan hàng tre cho Hợp tác xã nữa đấy. Công điểm hàng năm của lão cứ gọi là ngót nghét một lao động chính.

            Nền nhà mát lạnh làm lão chợp mắt được một tí. Tỉnh dậy, nóng vẫn hoàn nóng. Chết, chết… Giữa trưa gay gắt thế này mà các anh không quân nhà mình vẫn ì ầm trên trời, quả là đáng nể đáng phục. Bay hao sức lắm, chứ không như mình phơi nắng ở dưới này đâu. Cảnh giác là như vậy. Đề phòng giặc Mỹ cắn trộm là phải như vậy.

            Con Mẫn kể rằng (đâu như người yêu nó nói) có một trận mình phát hiện địch chậm, bởi nó bay thấp quá. Nó bay thấp, máy “da-đa” chịu; tên lửa, cao xạ cũng chịu. Ra thế! Xưa lão cứ nghĩ, chiến tranh “hiện tại”, máy bay, xe tăng, đại bác, mạnh như sấm sét mới cần; chứ cái ngữ súng máy, súng trường có gãi ghẻ cũng chẳng đắt, sao đòi đánh máy bay phản lực? Lão đâu có ngờ rằng, chiến tranh “hiện tại” vẫn cần cái anh súng trường, súng máy ba chân, để nện chúng nó ở tầm thấp. Điều này lão luôn nhắc bọn con Mẫn. Không thế, e có lúc chúng nó “tư tưởng” coi thường súng nhỏ, mặc dù mọi điều chúng nó đã được học, được quán triệt.

            Học rồi, quán triệt rồi, chắc đâu đã thật bụng thông suốt. Như sớm hôm xưa đấy, hai cái cổ ngỗng là là sát sạt mặt sông, nhưng ở phía bờ bên kia, thành thử đơn vị mình cứ giương mắt đứng nhìn. Rõ tiếc cái công mưa nắng chầy chầy mà không xơi được cái máy bay nào. Lúc ấy bọn con Mẫn lại ước súng cao xạ. Ước thế, tức thị tư tưởng còn lung lay, chưa thật tin tưởng vào thứ súng mình có trong tay. Thích cao xạ à? Nó là là thấp, cao xạ càng bó tay. Đã gọi là “cao” cơ mà, tất chỉ bắn cao bắn xa - lão nghĩ thế. Bắn thấp, bắn gần, phải nói cái loại súng máy ba chân là nhất, và cả súng trường nữa.

            Hôm về Hà Nội có tí việc, lão thấy khắp các sân thượng, gác cao, chỗ nào cũng lô nhô ụ súng, mà toàn là thứ súng như bọn con Mẫn đang dùng. Thoạt đầu, lão thấy lạ. Hà Nội mà cũng dùng súng ấy à? Nhưng ngay lập tức, lão nhận ra là mình sai, mình chưa quán triệt. Mình còn chưa quán triệt thì đừng có chê bọn con Mẫn “tư tưởng” coi thường súng nhỏ. Mình cần phải nói chuyện này với chúng nó. Để chúng nó vững vàng tự tin hơn. Nói đi nói lại không thừa.

            Được con Mẫn tán thành để lão Cần nói chuyện Hà Nội cho bọn chúng nó nghe, lão đứng lên thuyết trình thật hùng hồn. Rằng lão đã tận mắt thấy Hồ Gươm nước trong xanh. Lão đã đến quảng trường Ba Đình lịch sử, đến Hồ Tây mênh mông… Lão đã, lần đầu tiên trong đời, được ăn kem mút Bốn Mùa. Lão buột miệng cười. Kem lạnh đến ê răng, phải nhè vội. Nhưng thôi kể những chuyện tựa thế, tuy là vui nhưng hãy để lại. Lão phải nói nhiều về chuyện Hà Nội sẵn sàng đánh máy bay tầm thấp như thế nào, để bọn con Mẫn học tập. Ở Hà Nội, sử dụng các loại súng máy và súng trường, không chỉ có các anh tự vệ sao vuông đâu, mà sao vuông là con gái cũng đông lắm. Còn cả các cụ đầu tóc bạc phơ cũng lập trận địa riêng. Trận địa nam, trận địa nữ, trận địa phụ lão, tất cả đều nêu quyết tâm đánh thắng, bắn trúng mục tiêu. Nên khí thế đánh máy bay Mỹ ở Hà Nội hừng hực, chứ không âm thầm lặng lẽ như chúng mình. Học tập Hà Nội, chúng mình phải động viên thi đua cho rầm rộ hơn. Nhưng cái chính vẫn là phải xác định cho chúng nó tin tưởng vào súng ống của mình chơi thắng được tàu bay hiện đại Mỹ.

Nói xa, nói gần, rồi lão đưa cái ví dụ ngắt quả bưởi (quanh nhà lão chả đầy bưởi mà) để so với bắn máy bay. Quả bưởi thấp, với tay lấy được thì không nên dùng xào, cồng kềnh, khó chọc, có khi chọc không nổi. Nghe cả bọn cười ồ. Cười à, đợi đấy xem lão nói có đúng không. Từ chuyện chọc quả bưởi, lão dẫn dắt sang chuyện bắn máy bay Mỹ cũng phải có súng nọ súng kia.

-                     Đấy, các chị xem, súng của chúng mình, ngay trận đầu chẳng đã làm thằng địch suýt bỏ mạng trên quãng đê này? Không bỏ mạng ở đây, nó cũng đã phát khiếp, phải vù tít lên cao. Nó lên cao cũng chết, có tên lửa, cao xạ trị nó. Như vậy chúng mình đã làm được một nhiệm vụ đánh bốc, phải không Mẫn nhỉ? - Lão quay hỏi con gái - Đúng à ? Chúng mình còn phải tiêu diệt nó, tức là bắn cho nó rơi. Đồng chí Xã đội trưởng chẳng nhắc đi nhắc lại nhiệm vụ của chúng mình là gì. Các chị đừng có quên. Tiêu diệt và đánh bốc là hai nhiệm vụ “đoàn kết” chặt chẽ, à à… quan hệ chặt chẽ với nhau. Phải tiêu diệt được nó, nó mới càng sợ, phải bốc lên cao. Không bắn trúng, nó đếch… à quên, nó không sợ… Xin lỗi…

Cả trận địa lại cười ồ. Ừ, cứ việc cười, cốt các chị thông suốt, các chị khỏi quên. Tôi chỉ mong có thế!

… Thôi, lão phải ra trận địa với chúng nó đây. Chợp mắt được một tí tốt rồi, khỏe rồi. Lão Cần nhỏm dậy kéo hơi thuốc lào rõ kêu, nhả khói khắp nhà, rồi xuống bếp lệnh khệnh bê nồi cháo ra trận địa.

Ai đã đưa cháo ra đây thế này? Món cháo đỗ đen ngon hơn đứt cháo trắng của lão. Nồi này, đích nồi bà Tuyết. Họp xã viên nay mai, lão phải phát biểu về việc phân công cháo nước, kẻo có hôm thừa mứa lãng phí.

Không thấy Mẫn, lão Cần bò lên mặt đê tìm. Thấy có anh Xã đội, lão cất giọng:

-                     A, đồng chí Xã đội!

-                     Vâng. Chào bố già! - Xã đội trưởng Dự quay lại chào lão Cần rồi vẫy vẫy…

-                     Bố già, mời bố lại đây.

Lão Cần đến đứng bên Dự và Mẫn. Cả ba cùng nhìn dòng sông mênh mông cuộn chảy, sóng xô đục ngầu.

-                     Bố già ạ, bố thử cho ý kiến về việc chuyển trận địa ra ngoài đê, có được không?

-                     Anh có ý định ấy?

-                     Dạ, ý cô Mẫn.

Lão Cần nhìn con gái. Hồi này hắn đen tợn. Lão chưa hiểu sẽ phải làm thế nào để cắm được trận địa ở ngoài đê kia, giữa mùa nước mênh mông nhấn chìm tất cả bãi thấp bãi cao như thế này. Ra được đấy thì tốt nhất. Bọn tàu bay Mỹ có lách đằng giời cũng cứ nằm trong tầm súng chúng ông, trừ khi mày bay đường khác. Bay đường khác, chúng ông cũng chả chịu. Trận địa chúng ông nhiều lắm. Thôn này, thôn kia, xã này, xã khác, từ đây đến Hà Nội, từ Hà Nội đổ xuôi, đâu đâu cũng chúng ông. Chúng ông vòng trong. Chúng ông vòng ngoài.

-                     Cụ thể con định thế nào? - Lão quay hỏi Mẫn.

-                     Ý con là ghép mảng, đóng cọc.

Lão Cần thấy hơi lạ tai, im lặng. Xã đội trưởng Dự nói:

-                     Không sao, bố già ạ. Súng cối, mình còn đặt bắn trên thuyền nan được cơ mà.

-                     Ý con định đưa trận địa vào trong cái bãi dâu lơ phơ kia, để tiện ngụy trang, thày ạ!

Lão Cần gật gù. Thảo nào, lão thấy con Mẫn hay lên đê ngắm nhìn, là vì vậy. Mình hay nói nó đoảng là nói vậy thôi, chứ nó tinh khôn hơn đứt mình, hơn cả khối đứa cùng lứa con gái chúng nó.

Trao đổi công việc xong, Dự đi. Việc di chuyển trận địa còn chờ ý kiến chung của Ban chỉ huy xã đội.

-                     Nhưng mà, Mẫn này…

Mẫn nhìn bố chờ đợi. Lão Cần nói tiếp:

-                     Chờ gì thì chờ, ta cứ phải lo chuẩn bị ngay mọi thứ từ bây giờ. Việc ăn ở ngoài ấy ra làm sao? Cả việc tre pheo thuyền mảng cũng phải tính toán cụ thể, để thày còn lo vận động bà con góp sức góp phần.

Mẫn “Vâng”, mắt vẫn nhìn gần nhìn xa: Xóm làng san sát ven đê đang mùa cày. Nước sông Hồng cuồn cuộn đổ về xuôi. Xuôi kia là Hà Nội. Hà Nội rất gần. Nơi ấy có cả đơn vị tên lửa người yêu Mẫn, đang ngày đêm canh giữ bầu trời; như nhiệm vụ của trung đội dân quân nữ ở cái trận địa vòng ngoài này.

Tháng 7/1969

 

 

 

 

Người chính trị viên

 

Đã định bụng ngủ một giấc rõ dài, vậy mà loa truyền thanh vừa nổi nhạc tập thể dục là Ba choàng tỉnh. Mới sáu tháng, cuộc sống bộ đội đã tập cho Ba không quen dậy muộn. Thức giấc nhưng Ba nằm nguyên trong chăn, lắng nghe những tiếng động quen thuộc ngoài khung cửa sổ.

Ô, vẫn tiếng xe bò lộc cộc như ngày nào, Ba hình dung ngay đến bác Tích - người đánh xe. Bác Tích gù gù, với chòm râu hung hung, vừa đi vừa vung roi lên mông con bò lai Hà Lai có cái yếm ngực cứ như sà xuống quét mặt đường. Ngày nhỏ, có lần Ba ném đá vào bánh xe, bị bác Tích chộp được, cho luôn một beo tai, rát như phải bỏng.

Mắt Ba gà gà, đầu óc sảng khoái, nhớ lại con đường vào ngõ với màu sắc lung linh theo cách nhìn của thời thơ bé. Thực ra, con đường lát đá xám ấy, trời hoe nắng đã ngột ngạt nóng, mưa hơi lui phui đã lầm bùn. Một lần vào ngày mưa, đến rủ Ba đi tập văn nghệ, Hiền đã phải nhăn mặt lại vì con đường quá bẩn. Nhưng con đường ấy dù mưa dù nắng, sớm tối vẫn rầm rập người. Giờ này, con đường ấy người đi làm đã tấp nập rồi. Còn mình - Ba nghĩ - sẽ nằm đây cho đến khi nào bố ra khỏi nhà đã.

Ba lắng nghe bố mẹ nói chuyện lầm rầm:

-                     Tôi ăn ít thôi. Bà đơm lại để phần chúng nó.

-                     Ông cứ ăn đi. Thằng Dũng, con Thanh đã có bánh mì.

-                     Phần cả vợ chồng nó. Em nó về, đứa có đứa không, sao tiện.

Mùi xôi bay lượn quanh hai cánh mũi, song không đủ sức hấp dẫn kéo Ba chồm dậy như ngày còn thơ bé. Quan trọng hơn là, Ba muốn biết mẹ đang nói gì với bố cơ. Tại sao mẹ lại phải ghé sát vào tai bố, thì thầm. Chẳng lẽ mẹ nói “chuyện ấy”?... Ba hơi chột dạ, khẽ thở dài. Không chừng bố lôi Ba dậy “lên lớp” ngay bây giờ. Nhiều lần Ba đã phải tái mặt vì sợ bố. Sợ và không thể hiểu nổi “ông cụ” thế nào?

Bảo rằng Ba là đứa con được nuông chiều, có phần đúng. Thi đỗ vào lớp Tám, đi học hơi xa, bố nói sẽ mua xe đạp cho Ba. Ba tưởng, nếu bố không bốc thì, ít cũng sáu tháng hoặc một năm sau mới có xe. Tiền tiết kiệm của gia đình đâu đã đủ. Vậy mà chỉ nửa tháng sau, bố hất hàm như ra lệnh cho Ba: “Đi chợ giời chọn xe với bố”. Mua xe đạp về, bố lau luôn cái tủ chè và bộ bàn ghế, tất cả đều sạch bóng. Cái tủ chè gỗ lát chun, bộ bàn ghế cũng thứ gỗ ấy, bóng như nước sơn cái xe đạp bố vừa đem về. Phải bán hai thứ ấy, bố tiếc đứt ruột.

Khi người mua đến lấy đồ, bố khiêng vác giúp họ, cẩn thận cứ y như bố là người mua, chứ không phải người bán. Chiếc xe bò lọc cọc chở những thứ ấy đi rồi, bố còn đứng trước nhà nhìn theo mãi. Hẳn bố tiếc lắm. Bố xoa xoa tay, nói như để động viên Ba: “Mai kia bố mua bộ bàn ghế trúc, rẻ và đẹp chán. Nhà ta có những thứ ấy là do mẹ mày”.

Bố Ba kể tiếp: Ngày theo nhà máy về tiếp quản Hà Nội, gia đình Ba dọn đến ở cái nhà này, bà chủ cũ cứ gạ: “Thôi thì ông bà tậu hẳn, tôi sẽ để rẻ cho”. Bố Ba suýt bật cười. Đi kháng chiến chín năm, vừa làm công nhân, vừa vỡ đất trồng thêm khoai sắn mới đủ sống, lấy tiền đâu mua nhà cơ chứ. Không bán được nhà, bà chủ nì nèo để cho bố Ba cái tủ chè và bộ bàn ghế.

Mẹ Ba nói với bố: “Để họ khiêng những thứ ấy đi, cái nhà trống huơ trống huếch. Thôi thì cố!”. Thế là mẹ Ba chạy chọt vay mượn được một số tiền. Từ đấy nhà Ba có cái tủ chè và bộ bàn ghế sang trọng này. Nhìn những đường vân hoa hiện trên mặt gỗ màu nâu nâu đen đen, như có bàn tay thợ khảm ngầm ở trong, bố mẹ Ba thích lắm. Mua rồi mới biết bà chủ nhà bán đồ đạc để đi Nam. Bố Ba thở dài: “Biết thế, mình chẳng mua!”. Mẹ Ba nói như phản đối: “Mình không mua, họ cũng bán cho người khác!”. Bố Ba vẫn cho rằng, mình không mua cứ là hơn. Mua, hóa ra mình tiếp tay cho người ta di cư. Như thế là không nên.

Ba thấy bố mẹ thường hay có sự trái ngược về cách suy nghĩ. Cả việc quan tâm con cái, “các cụ” cũng nghĩ không hẳn giống nhau.

Anh em Ba đang tuổi ăn tuổi học, tất nhiên đứa nào cũng lành lặn. Riêng ba đủ lệ bộ: Áo budông, áo len, áo bông… Mẹ không bằng lòng việc bố nuông chiều Ba. Không nuông, sao bố lo cho Ba như vậy. Tuy thế, Ba không thấy bố mẹ to tiếng bao giờ.

Học hết lớp Chín, Ba bắt đầu có bạn gái. Bạn gái bạn trai đến nhà, bố giục Ba tiếp các bạn chu đáo. Ba được tự do dốc lọ chè, lôi cả bao Điện Biên giấy bạc ra đốt khói um. Bố không hề đe nẹt. Khác bố, mẹ thì luôn ngăn Ba uống chè và hút thuốc lá. Mẹ lo Ba hư hỏng. Vì lo nên mẹ hay phàn nàn bố Ba nuông con. Bố bảo: “Đứa nào quá đà xem, tôi giần cho om xương”.

Ba còn nhớ một chuyện:

Đêm ấy xem chiếu bóng khuya, Ba rủ Thành về ngủ nhà mình. Hai đứa nằm nói chuyện hồi lâu. Sáng hôm sau, Thành về rồi, bố gọi Ba vào nhà trong uống chè và nói: “Sao chúng mày cứ gọi các cô bạn là con nọ con kia, con Hiền con Tuyết?... Tao nghe chướng tai lắm. Thế ra mày chỉ nói năng tử tế trước mặt chúng nó thôi à. Không nên con ạ. Bạn bè phải tôn trọng nhau, thế mới là người đứng đắn!”. Chén nước trà sáng ấy, Ba uống không mùi thơm. Đến trường gặp Hiền, Ba ngường ngượng; cứ như Hiền đã nghe thấy Ba nói điều không đứng đắn.

Ba cố lắng nghe bố mẹ thì thầm, nhưng không rõ chuyện gì. Sốt ruột, Ba chống tay nhỏm người nhìn vào gian nhà trong. Bố Ba đang vê vê thuôc lào, nét mặt không có gì khang khác, nghĩa là vẫn khó hiểu. Bố kéo mấy hơi thuốc rõ dài, nhả khói lên trần nhà, rồi ngắm cái bể cá.

Cái bể cả không kê chỗ cũ, như ngày Ba ở nhà. Bố đã đặt nó vào gian trong để tránh gió lạnh. Cái bể cá ấy hồng lên trong ánh sáng của ngọn đèn bốn mươi nhăm oát. Những con thần tiên thư thái bơi tại chỗ; mấy con mã giáp lượn lờ; đôi hắc mô ni đen như nhung đen, thỉnh thoảng lại xô đến gần ngọn đèn tìm hơi ấm.

Khi bố dựng cái bể cá, Ba đã hỏi: “Thày sắp hưu?”. Bố mỉm cười: “Chả cứ!”. Sau đó, bố không tiếc lời giảng giải với Ba rằng: “Cái bể cá như một liều thuốc an thần đấy. Mỗi lúc rảnh rỗi, yên tĩnh, ngồi một mình ngắm những chú cá, dù mỏi mệt căng thẳng đến mấy cũng tan biến hết. Chứ không à? Rõ mình vẫn nhìn chừng chừng, vẫn để hết tâm vào đàn cá, vậy mà chỉ chốc lát mình như chẳng nhìn chẳng nghĩ gì. Khi nhận ra điều ấy, chính là lúc cái đầu mình nhẹ lâng lâng”. Bố nói, Ba không tin. Ba không thể ngồi ngắm cái bể cá như một người già. Ba cho việc giải trí ấy thích hợp với người già. Còn Ba, mệt thì ngủ; có bực bội gì, Ba đi chơi. Biết Ba không thích cái bể cá, ít khi bố để Ba dính đến. Ba đi đâu, tiện thì bố nhờ mua hào giun. Nhận lời rồi mà Ba quên, bố không mắng.

Hôm Ba ngồi đọc “Ông già và biển cả” bên cái bể cá, một con hắc mô ni chẳng hiểu sao vọt ra ngoài, Ba không biết. Đi làm về, thấy con cá nằm ườn mình dưới đất, bố kêu lên một tiếng, chạy vội lại nhặt. Chú hắc mô ni ấy lờ đờ mất một ngày. Bố bảo: “Chỉ chậm một tí nữa con cá chết”. Mẹ Ba thì khác. Mẹ ca cẩm mãi về cái tội Ba không đồng tình “chăm nom bể cá với bố mày”. Ba chỉ cười. Ba muốn bố đọc “Ông già và biển cả”, thử xem cái thú nào hơn. Trong sách, cuộc chiến giữa một ông già dũng mãnh kiên cường như thế, với một con cá to khỏe dữ dằn như thế, thật hấp dẫn người đọc và thật khó quên. Còn trong cái bể của bố, con cá chỉ to bằng ngón tay, rặt một màu vàng, sao gọi là con kiếm? Con kiếm trong sách “Ông già và biển cả” mới thật xứng là con kiếm chứ. Và ông già đánh cá trong sách thật xứng là một anh hùng!

Ba kể chuyện ấy cho bố nghe. Nghe xong bố bảo: “Được! Mày đưa quyển sách tao xem!”.

Việc đã tưởng thế là xong, vậy mà không. Nửa tháng sau, nhân ngày hai bố con đều nghỉ, bố trả Ba quyển sách, thế là câu chuyện lại tiếp tục.

Bố Ba nói: “Tao phục ông già trong sách. Phục lắm. Nhưng, mày đừng tưởng bố  mày không bén gót ông ta nhé! Tao không ra biển, chỉ ở thành phố, và tao đã sống chín năm trong rừng. Tao đã khiêng đi từ Hà Nội lên Việt Bắc hàng trăm tấn máy móc. Không chỉ một lần đâu con ạ. Tao đã khiêng những cỗ máy ấy từ hang động này sang hang động khác, đếm không xuể những con suối đã lội qua, nhớ không hết những sườn dốc đã vượt lên. Tay tao cũng xây xước như tay ông già trong sách. Vai tao cũng phồng rộp không kém vai ông già. Ông ta ngắm sư tử vờn trên bờ biển, còn tao, tao đi đái cũng gặp hổ. Đừng nghĩ rằng bố mày bốc. Con hổ ấy đang lang thang trong rừng thì gặp tao đi tìm nấm để cải thiện. Tao trừng mắt nhìn con hổ, và hất luôn súng khỏi vai. Con hổ chồm lên vừa đúng lúc tao bóp cò. Nó chết rồi tao mới nhớ mình chưa cài cúc quần. Tao chặt cây làm đòn khiêng, chờ xem có anh em nào đi qua, hoặc nghe súng nổ chạy đến, nhờ khiêng về… Bây giờ - bố Ba hạ giọng - tao thích cái bể cá này, đâu phải muốn an nhàn, muốn hưởng lạc, mặc sự đời như đôi người chơi cá khác. Không, không phải thế đâu con ạ!”.

Ba cầm quyển sách để vào giá, tay run run. Từ đấy Ba không dè bỉu cái bể cá nữa. Nhưng Ba vẫn cho bố mình là người khó hiểu.

Tốt nghiệp lớp Mười xong, thi trượt Đại học Bách khoa, Ba xin vào học nghề ở nhà máy bố. Chẳng là, gửi đơn vào đấy Ba chắc sẽ được bạn bè của bố ủng hộ. “Mày không có gan tự học một năm nữa để thi lại đại học à?” - Bố Ba nói như quát lên. Tại sao Ba phải vào đại học. Bố thích Ba làm kỹ sư hẳn thôi. Không kỹ sư thì đã làm sao? Lúc bố còn đang lầm lầm mặt giận, Ba nói rõ là Ba không rút đơn. Bố yên lặng. Hai hôm sau bố lại hỏi Ba lần nữa. Ba vẫn không chịu rút đơn. “Thôi được, mày cứ học nghề. Không phải tao nuôi mày, cố cho mày học hành là cốt lấy cái bằng cấp. Mày là kỹ sư hay không là kỹ sư, đối với tao cũng thế thôi. Tao chỉ cốt mày sống cho ra người, có nghị lực, có nghề nghiệp tinh thông và có ích. Thi trượt đại học rồi mới đâm đơn làm thợ, tao e mày chỉ là thằng kém kiên trì thôi, con ạ. Tao thấy khối đứa trẻ như mày biếng học, dốt nát, mà cứ giương giương khoe mình là công nhân nhà máy nọ nhà máy kia. Công nhân cái gì? Chúng nó mới chỉ có cái vỏ công nhân thôi. Để trở thành công nhân thực thụ thì phải phấn đấu lâu dài, gian khổ lắm. Nếu mày nhất tâm học nghề, thì học cho đến nơi đến chốn. Cả nhà này, bố mẹ, anh chị mày đều là công nhân, không ai làm điều gì tai tiếng cả. Bố mong mày sẽ phấn đấu để mọi người trong cái nhà này không hổ thẹn vì mày!”.

Nói gì thì nói, Ba vẫn cho rằng bố có tí tỉnh đầu óc địa vị. Không thế, sao bố cứ như có ý thúc Ba vào đại học. Để lấy cái bằng kỹ sư chứ gì. Như thế bố cũng quan niệm giống nhiều người, trọng kỹ sư trí thức hơn là lao động chân tay. Nhưng không hẳn như Ba nghĩ. Hôm đi chơi về, mẹ Ba hỏi: “Làm sao quần áo mày lấm thế?”. Giọng Ba bực bội: “Con mẹ quét đường cứ giương mắt quét lịa, bắn hết vào người con!”. Bố Ba đập tay xuống bàn, quát: “Hừ, mày ăn nói như thằng mất dạy! Con mẹ quét đường? Ai cho mày gọi người ta như thế? Mày khinh những người lao động ấy ư? Có thật mày dám khinh?”.

Cùng ngày, bố còn “phê” bọn thợ trẻ mải chơi, làm ăn thì cẩu thả; bọn thợ trẻ sao chỉ thích cơ khí, coi thường nghề mộc nghề nề. Bố thuyết lý rằng: Cuộc sống này, thử không có nghề mộc nghề nề xem? Chúng mày lấy nhà đâu mà ở, giường ghế đâu mà nằm ngồi. Ngay cái nhà máy này, nếu không có thợ mộc thợ nề thì ai sẽ sửa chữa nhà xưởng khi dột nát, ai sẽ đóng khuôn mẫu cho phân xưởng đúc gang? Rồi bố không ngớt lời khen những người thợ giỏi như ông X, ông K… Những người ấy, chẳng những giỏi tay nghề, mà họ còn dám tay không dựng cơ đồ, lập nên những hợp tác xã có tên tuổi giữa Thủ đô này. Những người ấy, ai dám nói họ không bằng mấy tay công nhân lười nhác, nghề ngỗng chẳng ra gì. Cả những vị kỹ sư èng èng trong biên chế “người Nhà nước” nữa, ai dám vỗ ngực trước thanh thiên bạch nhật, coi mình hơn mấy anh thợ giỏi hợp tác xã; cho dù đương thời quan niệm dân hợp tác xã là dân hạng hai. Rồi bố thở dài, hạ giọng như nói với chính mình: “Sao lại phân biệt đối xử như vậy chứ!”.

Ấy nhưng, những người bố vừa khen đã bị chê luôn. Rằng: Trước đồng tiền, không ít người đã nổi lòng tham. Phải tay tao, tao trị những cái hợp tác xã ma ấy đến nơi đến chốn. Không thể chấp nhận hành vi lập hợp tác xã chỉ cốt lấy cái tiếng cái tên, cốt làm giàu cho bản thân; còn những người lao động thì vẫn cảnh ráo mồ hôi hết tiền. Cung cách làm ăn của họ không khác bọn chủ thầu ngày xưa.

Ba vặn: “Sao thày bảo chúng con phải học hỏi họ?”. Bố thở dài, nhìn thẳng mắt Ba: “Mày thế mà ngu, con ạ. Tao khen là khen cái bàn tay con mắt họ; cái ấy chúng mày phải học. Còn tao chê là chê cái tâm họ tham lam, coi đồng tiền to hơn tất cả. Ba thấy phần nào bố có lý. Nhưng ngẫm cho cùng, bố vẫn là người khó hiểu, khó hiểu thật!

… Trưa nay, chiều nay, bố sẽ đối xử với Ba thế nào đây. Kiểu này, không khéo mẹ bị bố vặn, đã “khai” hết rồi. Kệ, nằm ngủ tiếp cái đã!

Ba cuộn chặt hai mép chăn sát người. Nhưng giấc ngủ không đến lại với Ba như mong muốn.

*          *          *

Ba đi chơi về hơi muộn. Kim đồng hồ chỉ mười hai giờ mười phút. Không phải nhỡ, mà Ba cố ý về muộn. Để xem bố xử thế nào. Mẹ lộ việc Ba dặn “không phải trình báo tạm trú với công an” là bố nắm được “tủ” rồi.

Bố mẹ và các anh chị chờ cơm Ba. Tất cả đều hồ hởi khi thấy Ba bước vào nhà. Chắc bố cho qua. Bố chấp gì thằng lính mới nhớ nhà, tiện chuyến công tác “vù” về đôi ngày. Tuy khó hiểu, nhưng bố rất thương Ba. Thương là căn bản. Thấy bố cười cởi mở, nên Ba không ái ngại trước câu hỏi của bố: “Con xa nhà chưa đầy năm mà đã quên giờ giấc của gia đình à?”. Ba tủm tỉm cười, ngồi vào cái ghế dành cho mình, bên cạnh bố. Bố rót rượu cho cả Ba. Chưa bao giờ, kể cả giỗ tết, bố để Ba “tí tửu” với mình, trừ bữa cơm tiễn Ba tòng quân. Hôm ấy bố cũng tự tay rót rượu cho Ba, cho bạn bè Ba, cho cả Hiền: “Uống đi các cháu! Những lúc này, các cháu và thằng Ba uống một vài chén, chỉ vui, không hại gì!”. Bố lại giục Ba: “Uống đi con!”. Ba uống một hơi cạn chén rượu cam. Ba nhìn bố mẹ, định đưa đũa gắp thức ăn, bỗng chững lại. Ba bắt gặp cái bể cá ngay bên cạnh bố.

Những con thần tiên đẹp thật là thần tiên. Những con hắc mô ni đen thật là đen. Duy có con kiếm, Ba vẫn không ưng. Không ưng là không ưng cái tên gọi con cá. Phải như con kiếm mà ông già đánh cá của Hê-min-uê đánh được, mới đáng được gọi là con kiếm chứ.

-                     Thế nào? Đi được những đâu rồi con? - Bố hỏi Ba.

Ba trả lời thật thà:

-                      Con mới đi có một nơi thôi ạ.

Bố cười rung hàng râu ngắn, bạc trắng:

-                     Bố biết mà. Nhưng sao không bảo nó đến ăn cơm? Con bé thế mà…

Bố bỏ lửng, không nói hết câu. Con bé thế mà… Thế mà sao? Ba áy náy. Bố không mấy khi lấp lửng. Chắc có chuyện gì. Chuyện gì kia chứ?

Hiền vẫn là Hiền như trước lúc Ba nhập ngũ. Không có gì khác cả. Hiền khen Ba rắn rỏi, tuy có hơi đen. “Hơi đen là so với trước kia thôi; với người khác, anh vẫn còn trắng lắm. Con trai trắng nõn trắng nà, không đẹp đâu”. Còn Ba trắng nhiều hay trắng ít, điều ấy không quan trọng. Quan trọng là Ba đã gặp Hiền. Hiền cười hàm răng mới trắng làm sao!

Khi chị gái Ba vừa bưng mâm bát xuống bếp, bố đã giục mẹ gọt cam. Ăn cam xong, chỉ còn lại Ba và bố ngồi bên bàn. Ba toan đưa chén nước xuống bếp cho mẹ, bố gạt đi:

-                     Tí nữa mẹ mày uống. Ngồi đây bố hỏi: Thế bao giờ mày đi?

-                     Con định vài hôm nữa.

-                     Tại sao vài hôm nữa?... Sáng nay mày nói dối cái Hiền mà không ngượng à?

Giọng bố nặng nề nhưng không gắt gỏng. Câu hỏi của bố khiến Ba thật bất ngờ. Ba có cảm giác như mình đang đi thư thả, bỗng có ai đó từ đâu xô tới, đẩy Ba lạng người đi.

-                     Mày nói dối bố dối mẹ, lại dối cả người yêu mà không biết ngượng? Mày biết không, khi tao đến gặp nó, báo cho nó biết tin mày về, nó reo lên, gọi tao bằng bố. Nó mừng quá! Xưa nay, cả khi mày lên đường nhập ngũ, nó có xưng hô với tao như vậy đâu. Nó chỉ gọi tao, gọi mẹ mày là bác… Nhưng rồi, sau ít phút mừng rỡ, nó đã khóc. Nó khóc vì tao bảo cho nó biết rõ là mày trốn về nhà, tức thị mày đào ngũ!

Ba đứng ngay dậy:

-                     Con không đào ngũ!

-                     Ngồi xuống! - Tiếng bố Ba vang lên đột ngột - Ngồi xuống nghe tao nói đã. Mày sợ hai tiếng đào ngũ à? Đi công tác rồi lẩn về nhà thì cũng coi như đào ngũ. - Bố Ba hạ giọng - Thế là mày đào ngũ đấy con ạ! Bỏ về, dù chỉ một ngày thôi, cũng là đào ngũ. Không chỉ những đứa bỏ hẳn đơn vị mới gọi là đào ngũ… Cái Hiền nó khóc, tao thương nó. Tao thương mẹ mày. Tao thương cả cái thân tao…Tao đã bảo cái Hiền: “Nhưng thôi con ạ, lát nữa nó đến con cứ vui vẻ, coi như chưa biết sự gì. Để bố bảo nó trước đã. Trưa chiều nay con hãy “ý kiến” với nó. Nó là con của bố, là người yêu của con, bố con ta không thể để nó quanh quẩn ở nhà, dù chỉ vài ngày. Không tránh được cái xểnh chân đầu tiên, thì rồi sa ngã dễ lắm!”. Người ta đi xa, ai chẳng nhớ bố mẹ, gia đình. Nhưng không thể cứ nhớ là quên mọi sự, rồi mò về. Dễ mẹ mày, dễ tao đây không nhớ, không thương mày? Còn cái Hiền, nó nói gì với mày?

-                     Không! Cô ấy không nói gì với con cả. Nhưng…

-                     Nhưng sao?

-                     Con hẹn Hiền tối nay đi chơi, Hiền bảo bận. Con có hơi giận.

-                     Hơi giận mà về muộn? Dễ không giận, mày còn ở đấy đến sáng mai?

Thế này là thế nào? Bố định đẩy câu chuyện đến đâu nữa.

Bố Ba nói:

-                     Cái Hiền nó khá đấy, con ạ. Nó biết nghe bố để vui vẻ với con. Bố chắc lúc này nó cũng khổ tâm lắm đấy.

Nói xong, bố Ba đứng dậy đi ra ngoài; tựa anh chính trị viên Đại đội Ba, khi phổ biến vấn đề gì xong, thường ngừng lại ít phút, rồi mới hỏi xem có ai ý kiến gì. Như là một chính trị viên, bố Ba trở lại bên bàn, nói như đã bàn bạc xong với Ba:

-                     Còn ba giờ nữa tàu chạy. Chạy lúc sáu giờ mười lăm phút chiều nay. Bố đã mua vé trước cho con rồi đấy. Con đi nằm nghỉ một lát. Tí nữa thế nào cái Hiền cũng đến đưa con ra tàu.

Ba ngồi im bên bàn, đầu hơi cúi xuống. Ba muốn nói đôi câu gì đó, không phải là để thanh minh với bố. “Con không có ý định đào ngũ” - câu thanh minh ấy đã bị bố đánh gục rồi. Nói gì? Thật khó! Nhưng cứ ngồi im thế này, bứt rứt quá. Không lẽ rồi cả với Hiền, Ba cũng chỉ yên lặng.

Ba về giường nằm, không phải để kiếm giấc ngủ, mà cốt được yên tĩnh với dòng suy nghĩ riêng tư. Thế là ngày mai Ba sẽ có mặt tại đơn vị. Đứng trước Đại đội trưởng và Chính trị viên, Ba sẽ trình bày thế nào? Tốt nhất là nói thật. Vì nhớ nhà Ba đã trốn về. Ba xin nhận kỷ luật nghiêm khắc của quân đội. Đại đội trưởng, tính anh ấy nóng nảy, có thể sẽ nặng lời với Ba. Còn anh Chính trị viên thì hiền lành. Chắc anh ấy không nặng lời, không ghét bỏ, mà vẫn an ủi, động viên Ba. Nhưng chắc chắn anh ấy không tha bổng tội lỗi cho Ba. Chính trị viên sẽ đồng tình với Đại đội trưởng về hình thức kỷ luật Ba.

*          *          *

            Ba đi giữa bố và người yêu. Gió mùa đông bắc đã quét sạch lá lẩu trên đường. Trong gió rét, khuôn mặt Ba như gân guốc hơn. Ba người không nói gì với nhau. Nhưng Ba biết Hiền muốn nói điều gì đấy. Ba khẽ hỏi Hiền, nhân khi bố bước lên phía trước.

-                     Hiền không giận anh chứ?

-                     Sao lại còn giận!

Và Hiền lắc đầu khẳng định với Ba rằng, thực Hiền không còn giận nữa.

Bắt tay bố, nắm tay người yêu, Ba nhảy lên tàu.

Hai tháng sau, trong hai bức thư viết về cho bố mẹ và người yêu, Ba mới nói được điều mình định nói lúc ở sân ga: Ba xin lỗi bố mẹ, xin lỗi Hiền. Và trong cả hai bức thư, Ba đều viết:

Hôm ấy, bố là Chính trị viên của con (trong thư gửi Hiền, chữ “con” được thay bằng chữ “anh”). Con tự hào viết như thế, vì con đã và sẽ ra sức phấn đấu rèn dũa mình, như bố mong cho con có được tư cách của một người chiến sĩ - người chiến sĩ có nguồn gốc từ gia đình công nhân và là một công nhân”.

Tháng 12/1970




Tập truyện ngắn Ngày bình thường của Giang Trung Học gồm 10 truyện ngắn, xuất bản tháng 9/1974, in số lượng 4117 cuốn. Giá bán 0đ65 (tức 6 hào rưỡi). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét