6. Lộng Chương - Cây đại thụ của sân khấu(*)

             Vậy là ông đã ra đi, để lại cho đời một cái tên không thể nào phai: Lộng Chương!
            Ra đi ở tuổi 85 kể ra cũng không vướng bận gì nữa với nghiệp sân khấu, nhưng hình như đời nghệ sĩ - những nghệ sĩ lớn, bao giờ cũng đau đáu một nỗi niềm nghề nghiệp…
NVK Lộng Chương (đứng giữa) tại Lễ nhận
Huân chương Độc Lập Hạng Ba (1988)
             Vâng, sân khấu từ thuở ông bước vào, góp phần sáng tạo nên cho đến lúc ông khuất bóng, lúc hưng lúc suy; nay tìm đâu được nữa những đêm diễn rực lửa, những tình cảm nồng cháy của nghệ sĩ với quần chúng, khi cùng chung vui vở diễn của ông ra đời. Với hài kịch Quẫn - vở kịch lừng danh do ông sáng tác, đã có sức sống hàng nghìn đêm diễn; đã trở thành cụm từ kép: khi nhắc tới Lộng Chương là nhắc tới Quẫn, nói tới Quẫn là nói đến Lộng Chương, cũng đủ để ông trở thành Kịch tác gia nền anh nền chị. Đặc biệt, với Quẫn ông được coi là người đặt nền móng cho Hài kịch Cách mạng Việt Nam.
            Sân khấu là cuộc đời. Nhiều người đã nói vậy. Cuộc đời cũng lắm lúc khốn quẫn và thăng hoa lắm chứ, người viết tài năng là người biết nắm bắt cái điển hình, cái tiêu biểu (cả tốt và xấu) của cuộc đời để biến nó thành hình tượng nghệ thuật điển hình sống mãi với thời gian. Lộng Chương là một con người như thế - một tài năng lớn của sân khấu kịch Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Văn hóa Trần Hoàn
thăm Nhà viết kịch Lộng Chương 
tại nhà riêng
           Lộng Chương không chỉ là nhà viết kịch nổi tiếng, ông còn là nhà hoạt động sân khấu cách mạng giàu tâm huyết. Tên khai sinh của ông là Phạm Văn Hiền, sinh ngày 5-2-1918 ở xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Hồi nhỏ mới 6-7 tuổi, cậu bé Hiền đã được bố cho ngồi ở hố nhạc Nhà hát Lớn Hà Nội để xem những vở kịch có bác ruột mình diễn: Moolie, Trưởng giả học làm sang, TacTuyp… Có lẽ không khí kịch trường của Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX cùng niềm đam mê của các nghệ sĩ đã truyền hứng khởi cho cậu bé, để rồi những năm sau đó trưởng thành, chàng trai Hiền đã gắn đời mình với kịch trường. Cũng có lẽ những ấn tượng ban đầu đã nhen lên và hình thành trong con người Lộng Chương sau này chất trào lộng, hài hước trong sáng tác.
            Cả thời trai trẻ, Lộng Chương tham gia chơi “kịch tài tử” với những văn nghệ sĩ, trí thức lừng danh thời ấy ở Ban kịch Hà Nội, Ban kịch Thế Lữ… Dần dần, ông trở thành nhà biên kịch, vừa là “thày Tuồng”, vừa là nghệ sĩ biểu diễn; và là người thày đào tạo nhiều thế hệ diễn viên, đạo diễn, sáng tác kịch bản.
            Cuộc đời sáng tác của Lộng Chương thật đa dạng, phong phú. Trải qua từng thời kỳ của lịch sử đấu tranh cách mạng, ông đều có những đóng góp to lớn cho nền sân khấu Việt Nam. Không chỉ sáng tác và viết về sân khấu, ở lĩnh vực khác, ông đã để lại 9 tập thơ và ca dao, 5 tập phóng sự - ký sự kháng chiến. Cũng cần nhắc tới tập tiểu thuyết phóng sự Hầu thánh dài hơn 200 trang (khổ 13x19cm, Nxb Cộng Lực in năm 1942) là tác phẩm đầu tay của ông, được dư luận đánh giá cao. Đến nay, Hầu thánh đã tái bản nhiều lần… Khi nghỉ hưu, ông lại cần mẫn viết hồi ký Sân khấu đời tôi tới ngàn trang, đó là một tư liệu quý về sự phát triển của sân khấu cách mạng.
Nhà viết kịch Lộng Chương tại Nhà hát TP Hồ Chí Minh (1977)
            Thời kháng chiến chống Pháp, Lộng Chương đã có nhiều vở diễn nổi tiếng như: Lý Thới (1948), Du kích thôn Đồi (1952), Chiến đấu trong lòng địch (1954) - tác phẩm được Giải thưởng Văn học 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam. Sau này thủ đô Hà Nội được giải phóng, Lộng Chương đã góp công sức không nhỏ cho việc xây dựng các đoàn nghệ thuật như Đoàn Chèo Cổ Phong (Chèo Hà Tây ngày nay), Chèo Nam Hà, Kịch Hà Tây, Kịch Thanh Hóa… Đặc biệt, Đoàn Kịch Thanh Niên và Đoàn Kịch Công Nhân của Hà Nội là cái nôi nuôi dưỡng ban đầu cho các tên tuổi của ngành Sân khấu sau này như: Trọng Khôi, Doãn Hoàng Giang, Mỹ Dung, Đoàn Dũng, Hà Văn Trọng, Trần Hạnh, Hoàng Quân Tạo, Dương Quảng, Trịnh Mai, Ngọc Hiền…
            Thời gian kháng chiến chống Mỹ xâm lược cũng là giai đoạn bộc lộ tài năng rực rỡ của Lộng Chương. Nhiều vở diễn của ông để lại những ấn tượng sâu sắc như: Chặn tay chúng lại, Dì Mai, Bầu bán, Người nữ tự vệ áo trắng, Dũng sĩ Rạch Gầm, A Nàng, Tình sử Loa Thành, Đôi ngọc lưu ly, Cách chim luân lạc…
            Từ khi bước vào nghiệp văn chương, Lộng Chương luôn là một trong những nghệ sĩ đi đầu trong giới văn nghệ cách mạng Việt Nam. Ông là thành viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam; là Ủy viên Thường vụ, Thường trực Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tới khi nghỉ hưu (1979).
            Với cống hiến xuất sắc, Lộng Chương được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập Hạng Ba, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.
            Vĩnh biệt ông, sân khấu Việt Nam đã mất đi một Cây đại thụ!
                                                                                                                                               Tống Hoàng
           

(*) Báo Người Hà Nội, thứ sáu, ngày 11/7/2003; Sách “Lộng Chương trong trái tim bè bạn”, Nxb Hội Nhà văn, 2013.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét