Truyện ngắn Giang Trung Học
Bỗng hắn lù lù xuất hiện.
Vào cái lúc mặt trời vừa tụt xuống bên kia dãy đồi chè. Nhưng đất
trời còn sáng rực rỡ. Người đầu tiên trong gia đình chạm trán hắn
là Nhân. Nhân đang trao đổi công việc với ông Nam, thấy người thấp
thoáng ngoài cổng, liền chạy ra. Anh chủ động hỏi: "Dạ, thưa anh
cần gì ạ?". Hắn nghiêng đầu chào và đáp: "Tôi xin lỗi, đây
có phải nhà đại tá Nam?". "Đúng đấy ạ!". "Tôi là
con trai ruột đại tá Nam...". Nhân sững sờ trong giây lát, rồi kêu lên:
"Anh có phải anh Trung?". "Vâng. Tôi là Trung". Nhân lẹ
tay mở rộng cánh cổng, mời hắn vào nhà. Đi bên, Nhân nói: "May
quá, anh về giờ này đông đủ cả nhà". Hai bên lối dẫn vào nhà
là những hàng cau cao ngang tầm người, trĩu trịt quả. Vừa bước đến
sân, Nhân tíu tít gọi: "Ba ơi... Anh Trung về ba ơi! Hương đâu?... Em ra
đón anh Trung này!".
Lúc vừa nhìn thấy cha,
hắn cũng suýt té. May mà ông Nam kịp ôm chầm lấy con.
Cùng lúc, Hương xuất
hiện. Hương hồi hộp đứng sững cách cha và hắn chừng bốn bước. Để
nhận diện xem có đích thực là anh Trung. Đúng rồi. Nước da nâu với
khuôn mặt vuông của ba đây rồi. Cả hàng ria con kiến cũng là của ba.
Bỗng Hương như thể bất động. Chỉ thấy những giọt nước mắt trào ra.
Nhân đang cạnh ba và
Trung, liền bước đến bên Hương. Anh không nói gì. Song cốt để Hương sớm
lấy lại bình tĩnh trước tình huống này.
Đã từ lâu, đại tá Nam
không nghĩ con ông còn sống để trở về. Vậy mà nó đang hiện diện
trong vòng tay ông đây. Thế là, sau hơn hai chục năm xa cách, cha con mới
có dịp gặp nhau. Thì ra cái tin hắn chết, tưởng thật mười mươi mà
lại không thật. Tin phát ra từ người bạn cùng ấp, và cùng đơn vị
tham chiến với hắn. Phát ra vào cái lúc người lính Cộng hoà này tự
trút bỏ binh phục, chui lủi về quê, trước khi đến trình diện chính
quyền Cách mạng. Chính anh ta cõng hắn rút chạy. Rồi đành bỏ hắn
trước sức tiến công ào ạt của
đối phương. Hơn nữa, anh ta thấy hắn khó lòng sống nổi, do vết thương
mất máu quá nhiều. Mấy lần lay gọi, hắn chẳng hề cảm nhận được
gì. Để có thể thoát thân, anh ta đành vứt hắn nằm lại chiến trường.
Nhiều người trách anh
ta chỉ cốt sống cho bản thân. Đại tá Nam không nghĩ như họ. Là người
lính kinh qua bão lửa hai cuộc chiến tranh, ông quá hiểu những khắc
nghiệt ở chiến trường, nơi sự sống và cái chết đan xen lẫn nhau.
Đương nhiên, ai chẳng mong cho mình và đồng đội cùng sống. Nhưng khi cái chết đe doạ cận kề rồi,
người ta buộc phải nghĩ đến bản thân mình trước hết. Hiếm có ai chịu
đứng ngoài cửa hầm trú ẩn để nhường đồng đội vào hết, rồi mới đến
lượt mình. "Cho nên - đại tá Nam giải thích - cháu đừng vì việc
bỏ thằng Trung nằm lại chiến trận mà
nghĩ ngợi băn khoăn. Những người lính phía bên bác cũng gặp trường
hợp phải bỏ xác đồng đội, thậm chí bỏ cả thương binh, để rút lui cơ
mà". Cuộc gặp gỡ giữa đại tá Nam và anh ta vào dịp ông về thăm
quê. Ông trở về khi cuộc chiến tranh kết thúc đã hơn một năm. Cả ấp
đều hỏi: Sao trễ vậy? Ông không ưa vòng vo nói giấu. Thiệt bụng đáp,
bởi những người gần gặn nhất của mình chẳng còn ai, trong khi việc
quân lại bộn bề. Vợ ông bị giết từ thời Ngô Đình Diệm còn chấp
chính. Hương - cô con dâu thì ông chưa biết
mặt. Hơn nữa, chồng nó chết rồi. Đôi lần nhận được thư, ông đã kịp
thời viết lại cho nó. Ông khuyên con dâu nên tìm nơi tìm chốn mới, nếu
được người nào yêu thương. Lần đầu gặp ông, Hương nói: "Khi nào
có điều kiện, ba cho con đi theo với!". Thế là sau khi nghỉ hưu, ông kéo Hương đến lập nghiệp tại
nơi mình. Nơi đây làm ăn thuận hơn hẳn quê hương ông. Đất rộng. Người
thưa. Và là vùng chiến lược, rất cần phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng.
Khi Hương có mặt thì
cái trang trại nho nhỏ của đại tá Nam đã xanh mướt những hàng chè.
Nửa năm sau sẽ cho thu hoạch đại trà. Hương cứ thầm thắc mắc: Nhà
chỉ có hai người, làm thế nào trồng được cả chục ha chè. Rồi đến
vụ thu hoạch thì xoay xở ra sao? Hoá ra ba với anh Nhân chỉ là người
tổ chức và hướng dẫn kỹ thuật. Còn việc gieo trồng, chăm sóc cây,
đến thu hái sản phẩm sau này, đã có lực lượng lao động làm thuê.
Một đơn vị bộ đội làm kinh tế, thuộc quyền đại tá Nam trước kia,
cũng "sẵn sàng hỗ trợ thủ trưởng thu hái khi cần thiết".
Hồi ông và Nhân bắt tay vào việc khai phá đồi rừng, họ từng giúp
mấy trăm công lao động. Tuy thế, ông luôn xác định Nhân là cánh tay
phải trong kế hoạch lập nghiệp hiện nay. Thiếu Nhân, tất nhiên ông
phải tìm kiếm người khác giúp việc. Song tốt nhất vẫn là Nhân. Bởi
ông hiểu và tin Nhân hơn ai hết. Nhân từng
là người lính cần vụ của ông. Sau đó, anh trở thành sĩ quan, bắt
đầu bằng một đề xuất khá táo bạo. Nó được phát ra trong lúc cả ban
tham mưu sư đoàn nghỉ giải lao sau hồi bàn luận căng thẳng, rối mù.
Mọi người không ngờ ý kiến bâng quơ của
chú lính nhóc cần vụ - là Nhân - lại trở thành một gợi ý hay. Dựa
vào đó, và có sự bổ sung hoàn chỉnh, sư đoàn phó kiêm tham mưu
trưởng Nguyễn Thế Nam quyết định mở mũi tiến công đột phá, để giải
vây cho bộ đội mình. Sau chiến thắng ròn rã này, Nhân được đề bạt lên sĩ quan, làm việc trong ban
tham mưu. Kết thúc chiến tranh, anh từ chối việc vào trường đào tạo
nghiệp vụ chính quy, nhưng lại sẵn sàng tư tưởng phục viên. "Phục
viên thì cậu về đâu? Làm gì?" - đại tá Nam hỏi. "Em về quê.
Đốt rẫy làm nương thôi, thủ trưởng
ạ!". Biết Nhân không còn ai thân thiết ở quê hương ngoài Bắc, đại
tá Nam rủ: "Hay là cậu đi với tớ? Tớ cũng sắp sửa hưu. Chúng
mình cùng ra ngoài lập nghiệp. Ngay tại vùng sư đoàn ta đóng
quân". Nhân không phải đắn đo suy nghĩ. Bởi trước mắt, đại tá Nam cũng như anh, chẳng vướng víu
gia đình vợ con gì. Như thế, việc ăn ở và hợp tác làm lụng với nhau
cũng đỡ lôi thôi. Việc đi khai hoang lập nghiệp, thời gian đầu không ít
khó khăn; lại vướng víu bầu đoàn thê tử ở bên thì khó lòng vượt lên
được. Nhân đáp: "Thế thì em giơ cả hai tay đồng ý. Thủ trưởng đi
đâu, em xin đi đấy!".
Rời quân ngũ được mấy
năm rồi, Nhân vẫn quen miệng gọi ông Nam là thủ trưởng. "Không! -
ông Nam từng nói mấy lần - Từ đã lâu, mình không còn là thủ trưởng
của cậu nữa. Quan hệ giữa chúng ta bây giờ là... Nên thế nào cho
phải nhỉ?". Nhân nhìn ông, cười. Trước nay, ông rất ưa tiếng cười
cởi mở ấy. Còn thích cái núm đồng tiền con gái thấp thoáng hai bên
má, với cặp mắt sáng trong của anh. Thế mới chết mệt đám thiếu nữ
con nhà lành đây! Lần đầu tiên ông
Nam thầm nhận định về Nhân như vậy. Sao bao nhiêu năm trước, chưa một
lần ông nghĩ tới điều này nhỉ? Có thể vì ông và mọi người đều mải
miết với nhiệm vụ trong chiến tranh. Chiến tranh khiến người ta dễ bỏ
qua tất cả những gì ít liên quan đến
nhiệm vụ chung. Bây giờ là thời bình, nó khác. Rồi ra, Nhân phải lấy
vợ, và sinh con đẻ cái. Việc ấy, mình phải gánh trách nhiệm lo toan.
Trách nhiệm mình, có thể như là người anh cả. Nhân thì, một lần cậu
ta nói: coi mình như người cha. Tuổi mình
gấp hai, nên cậu ta nói thế chẳng phải là quá. Cậu ta tin yêu mình,
như mình tin yêu cậu ta. Còn cách gọi nhau thế nào không thật quan
trọng.
Mặc dù đã mấy lần ông
Nam đề cập chuyện xưng hô, song Nhân chẳng thay đổi được bao nhiêu. Chỉ
sau khi xuất hiện Hương, cái từ "thủ trưởng" và cả từ
"bác" mới bớt dần. Bắt chước Hương, Nhân cũng gọi ông Nam là
"ba". Sau này, khi đã quá hiểu nhau, Hương đùa trong lúc chỉ
có hai người: "Ai cho anh gọi ba em là ba?". Nhân nhìn vào mắt
Hương, đáp: "Anh nghĩ là em cho?". "Em không đâu!". Nhân chìa bàn tay ra
trước: "Em có cho anh không?". Hương đặt bàn tay mình vào bàn
tay Nhân, nói nhỏ: "Em cho!". Liền đó, hai mái đầu họ chụm vào
nhau. Rồi họ hôn nhau. Êm dịu. Ngọt ngào. Chẳng còn để ý đến cái
nắng non trưa ngày hè nữa. Họ cứ muốn ngồi mãi bên nhau. Ngồi giữa
những hàng chè này. Thế là từ đấy họ không còn phải dè dặt thăm
dò nhau như trước kia. Hằng ngày họ luôn trao cho nhau những nụ hôn,
cùng bộc lộ tâm tình và bàn về tương lai êm ấm. Tuy vậy, Hương ít
tham góp ý kiến trong mọi chuyện quan hệ đến hạnh phúc mai sau, mặc
dù cô yêu Nhân say đắm. Bởi Hương muốn tránh tiếng mình là gái đã
một đời chồng, gặp trai tân thì bày mưu kiếm kế trói buộc nhau. Vả
lại, nếu thành vợ thành chồng với nhau, cái chuyện ấy đâu phải ngày
một ngày hai xong xuôi. Nên tốt nhất là để Nhân
nói Hương nghe. Nghe để hiểu hết ý anh.
Về phía Nhân, anh yêu
Hương cũng thật lòng. Ngay từ lần đầu trao gửi những nụ hôn cho Hương,
anh không hề mang ý nghĩ lợi dụng nhằm thoả mãn khát vọng. Anh càng
không đánh giá Hương cao thấp vì đã có chồng hay chưa. Anh yêu bởi cảm
nhận được ở Hương nhiều điều tốt đẹp. Mà không phải sự cảm nhận
hời hợt thoáng qua. Hương ở bên anh đã hàng năm trời. Thời gian cùng
sự gần gặn giúp anh nhận thức và kiểm chứng rõ ràng. Hương không đẹp sắc nhưng quyến rũ anh bởi tính
nết dịu dàng. Sự dịu dàng khiến anh mê hơn cả suối nước mát bên đồi
chè; anh từng dìm mình trong đó, sau những giờ lao động quần quật
dưới nắng lửa hè. Hương quyến rũ anh còn ở sự chăm chỉ và sáng dạ
trước mọi công việc. Còn là cái bếp gọn sạch với bữa ăn hợp khẩu
vị, hơn hẳn thời chỉ có hai người đàn ông trong nhà này.
Tình yêu của đôi trai
gái, cho dù họ có ý tứ che giấu thế nào, ông Nam cũng vẫn nhận ra.
Chẳng những ông không ngăn mà còn vui trong bụng. Ông từng sớm nghĩ
đến chuyện chúng nó yêu nhau thì là điều thuận, điều hay. Cái cơ ngơi
này, sau ông, vợ chồng nó kế thừa để phát triển lên. Thế là ông toại
nguyện lúc về già. Được thế, tức ông sống có ích cho đời. Có ích
cho con cho cháu. Thằng Nhân, cái Hương, ông không sinh ra đứa nào, nhưng đã coi chúng như con
ruột. Chúng cũng thực sự xem ông như người cha mẫu mực, tin cậy.
Mấy năm qua rồi, chưa một lần ông thấy buồn
phiền vì quyết định lập nghiệp tại vùng đất này. Không phải ông say
sưa làm giàu. Mà chỉ thích nơi yên tĩnh, thoáng đãng, có không khí
trong lành, có mảnh đất trồng cây. Để bảo đảm cho cái phần cuối đời
của ông được sống khoẻ sống vui. Điều kiện ấy, ông không tìm thấy ở
nơi quê mình, nên mới đến đây - vùng đất mà trước kia đơn vị ông đã
giành giật bằng máu xương. Mấy vết sẹo
trên người ông cũng từ trận đánh ác liệt tại mảnh đất này gây nên.
Việc ông rủ Nhân đi cùng, lúc đầu chỉ do ngẫu hứng là chính. Không
ngờ Nhân kết ngay. Có Nhân, tất nhiên ông vui hơn hẳn. Có Nhân, ông cần
mở quy mô sản xuất rộng ra. Và càng chắc tin mình sẽ thành công trên chặng đường phía trước.
Niềm tin không xuất phát từ lòng tự mãn trước thắng lợi của hai
cuộc chiến ông trải qua. Ông không cho rằng, hễ đánh thắng giặc xâm
lược thì chẳng có khó khăn nào ngăn trở nổi bước phát triển về kinh
tế. Bởi đánh trận thuộc một lĩnh vực
khoa học. Làm kinh tế lại là phạm vi của khoa học khác. Người mù
tịt về khoa học kinh tế thì đừng có nghĩ gặt hái thành công trong
làm ăn. Sẽ mất cả chì lẫn chài, và trở thành kẻ nói láo nói phét
trước thiên hạ.
Nhớ lại những ngày
đầu khởi nghiệp, không ít người đã can ông Nam trồng chè. Trồng chè
vừa vất vả, vừa không kinh tế. Vậy mà ông quyết giữ vững ý định.
Cây chè có nhiều thuận lợi để phát triển cả trước mắt và lâu dài.
Về thổ nhưỡng, khí hậu nơi đây rất thích hợp với loại cây này. Trang
trại của ông lại nằm trong vùng chuyên canh chè rộng lớn, như thế sẽ
có lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Còn kỹ thuật trồng và chăm sóc
cây, đã có anh em trong đơn vị cũ của ông đảm nhiệm hướng dẫn, chuyển
giao. Với Nhân, cậu ta cũng là dân vùng chè phía Bắc. Vùng này, ông
từng sống nhiều năm trong thời kỳ tập kết theo quy định của Hiệp
định Genève. Nên Nhân và ông có am hiểu chút ít về nghề chè. Từ những
lợi thế ấy, ông quyết định lao vào kinh doanh cây chè. Có chè, ông hy
vọng sẽ có tất cả. Ông không quan niệm như nhiều người: phải trồng
mỗi thứ một tí, theo lối tự cấp tự túc từ cái thời xa xưa.
Đến nay, cây chè cho ông
thu hoạch sắp sửa kết thúc năm thứ ba. Sản phẩm được xí nghiệp chế
biến chè tại địa phương thu mua toàn bộ, thanh toán tiền nong sòng
phẳng. Nhờ thế, mấy khoản vốn vay ngân hàng và bạn hữu, ông đã trả
xong từ cuối năm trước. Trong nhà vẫn còn chút vốn dự trữ. Ông quyết
định cơi cao ngôi nhà. Ngôi nhà lên ba lầu, kiểu biệt thự, nom thật
bắt mắt. Có nhà khang trang đẹp đẽ rồi, ông liền lãng mạn đề xuất
cưới cho đôi trai gái. Để mọi việc lớn của gia đình xong xuôi đi. Thế
là đời ông thanh thản.
Từ khi biết chắc hai đứa yêu
nhau, ông hay ngỏ ý vun vào. Nhất là với Nhân, nhiều lần ông phân tích
cụ thể, bảo nên lấy con Hương. Hiểu rõ ý đồ ông, đôi trai gái dần
dần công khai tình cảm của họ. Trước mắt ông, chúng dám ngồi sát
nhau đùa vui như vợ chồng. Cả khi làm việc trên đồi chè, chúng cũng
ríu ra ríu rít, khiến ông vui lây. Miễn sao hai đứa đừng có vội quá
đà!
Đương nhiên họ không để ông
nhìn thấy cái sự quá đà. Tình yêu ở lứa tuổi gần ba mươi, cả đôi
đều ở độ ngấu rồi, lại ăn ở cùng nhà, làm sao tránh nổi. Lần đầu
tiên họ ăn nằm với nhau vào dịp ông Nam đi dự kỷ niệm mười lăm năm
ngày thành lập sư đoàn. Ba ngày hai đêm ông vắng mặt, họ chung sống hết mình, như
cặp uyên ương trong tuần trăng mật. Nhân hùng hục nhưng thiếu kinh
nghiệm. Dù sao cậu vẫn là trai tơ. Kho chuyện tán dóc của lính chưa
thể giúp cậu dạn dày trong sự ái ân. Hương hơn hẳn. Cô chủ động phối
hợp và nâng đỡ, để người tình vượt qua
bỡ ngỡ. Vậy mà cậu vẫn thất bại liền liền suốt cả đêm thứ nhất.
Nhân không thể kéo dài thời gian giao hoà trong mỗi lần. Lúc cậu xỉu
rồi, Hương chưa biết điểm đỉnh đợi mình ở đâu. Cô sững sờ hẫng hụt.
Nhưng không thất vọng. Bởi cô tin Nhân sẽ
mau biết cách điều chỉnh thôi. Sức ảnh không thua kém. Thần kinh cũng
vững vàng. Có điều mình cần bỏ qua e ngại, nói rõ sinh lý đàn bà
con gái, là ảnh biết cách thực hành ngon lành... Đúng như Hương nghĩ.
Ngày và đêm hôm sau, cả ngày sau nữa,
Nhân đủ sức dẫn dắt Hương liên tiếp đạt đến điểm đỉnh dục tình. Vào
thời khắc ấy, vòng tay Hương ghì chặt Nhân, và dướn cong mình lên.
Bần bật. Bần bật. Khiến Nhân muốn toàn thân tan chảy vào cơ thể em
yêu. Nhưng rồi... Nhân lo. Lo Hương mang bầu thì sao? Hương cười tủm tỉm,
cất giọng âu yếm: "Ngốc ạ! Đang là những ngày an toàn tuyệt đối
của em!".
Tuy không nhìn biết, nhưng ông
Nam đoán chúng nó dễ quá đà trong những ngày mình vắng nhà. Thôi
thì, chúng nó yêu nhau, có sao cũng dễ giải quyết. Chúng nó không ưa
nhau, lại để xảy sự cố mới đáng ngại. Nên, tổ chức cho hai đứa
thành vợ thành chồng là yên tâm nhất.
"Các con có nhất trí
với đề xuất của ba không?". Nhân lên tiếng trước: "Thưa ba, con
nhất trí ạ!". "Còn Hương?". "Vâng, con xin nghe lời
ba!". Thế là, đám cưới được tổ chức. Đơn giản. Ấm cúng. Và đúng
thủ tục pháp lý.
Từ đấy ông Nam đã tưởng yên
tâm thanh thản được rồi. Không ngờ
thằng Trung về. Nó từ trại cải tạo trở về. Về quê. Rồi mò
mẫm đến đây. Nom ốm còm như cái que. Da xanh hệt tàu lá. Nó bảo không
chết là may mắn lắm. Suýt nữa thì bị xe tăng Việt cộng nghiền nát.
Vậy mà trước dịp nghe tin thằng Trung chết trận, ông có tìm kiếm nó
trong mấy trại cải tạo, sao không ra? Ở đời
kể cũng lắm chuyện oái oăm. Bây giờ, việc thằng Nhân con Hương nên thế
nào đây? Trong sự đã rồi này, ông mang lỗi không nhỏ với thằng Trung.
Giá ông đừng lãng mạn vội vàng, thì đâu nên nông nỗi khó xử nay mai.
Và thật khó nói lúc này. Khó nói ngay cả với thằng Trung - con ruột
ông.
Trung không đợi ai nói. Hắn
nhận ngay ra điều rắc rối trong nhà mình. Bằng chứng rành rành là
tấm hình cưới treo tại phòng khách. Hương với anh ta. Anh ta tên Nhân.
Nghe ba kêu là Nhân. Nhân đã cướp vợ mình ư? Câu hỏi đó khiến hắn mất
ngủ suốt đêm. Sao ta không chết trước đạn bom cho rồi. Để khỏi cảnh tù đày dài dặc sáu năm. Nói học tập
cải tạo sáu tháng, sao biến thành tù sáu năm? Họ đã đánh lừa ta.
Đánh lừa tất cả những tên lính thua trận, nhẹ dạ cả tin. Hết tù, ta
lại phải chứng kiến sự rắc rối đau lòng này. Ba bảo sẽ giải quyết.
Giải quyết bằng cách nào. Cách nào thì đời ta cũng khó xoá sạch
nỗi đau. Với Hương, có quay lại với ta, cũng chẳng sung sướng hạnh
phúc. Chiến tranh đã triệt đứt khả năng sinh nở của ta. Hương ơi, em
ngủ hay là thức. Em ngủ với anh ta hay một mình?
Hương không một mình. Bởi
không chấp nhận ý Nhân đưa ra: "Đêm nay em nằm riêng nhé!".
"Còn sự rắc rối - Hương nói với Nhân - giải quyết thế nào là
việc sau này". Xử vậy nói vậy, song Hương không tránh khỏi rối
bời trong tâm. Vẫn biết lúc này mình không coi Trung đứng ở vị trí
người chồng, nhưng rồi, nếu ảnh yêu cầu đoàn tụ, cả ba khuyên nữa thì
sao? Mình trước sau kiên định giữ anh Nhân là đúng. Song thương Trung
quá.
Thấy Hương sụt sịt, Nhân
nghiêng mình ôm gọn em. Vuốt nhẹ mái tóc em. Và khe khẽ nói: "Nay
mai, dù trường hợp nào xảy ra thì anh vẫn rất yêu em!". Hương:
"Vâng. Nhưng theo anh thì giải quyết thế nào?". "Thế nào
là do em, anh, cả ba... và Trung quyết định". Nói vậy nhưng Nhân
nghĩ: Trước hết, cần khẳng định quan hệ giữa anh và Hương đang là cặp vợ chồng hợp
pháp. Nên, giải quyết theo hướng nào là do hai người định đoạt. Không ai
có quyền áp đặt. Còn Trung, hắn chỉ là chồng Hương của một thời quá
vãng. Nghĩ vậy, Nhân yên lòng hơn, bỏ qua sự bực bội ngầm ngầm, bởi Hương đã
chiều chuộng hắn một cách khác thường. Sao Hương phải lo từ thùng nước
tắm cho hắn? Trong bữa ăn, sao Hương cứ luôn gắp thức ăn cho hắn?
Bỗng Nhân thấy mình bị mất
mát. Cho dù đó chỉ là ý nghĩ mơ hồ thoảng qua. Để tránh gây thêm
rắc rối giữa các mối quan hệ trong nhà, Nhân cần tìm cách xử sự ngay.
Không cách nào tốt hơn là mình nên tạm rời chỗ ở này. Và anh đã nói
với Hương. Hương bảo: "Anh không phải đi đâu. Một phần gia sản nơi
đây là của anh cơ mà!". "Vẫn biết thế. Nhưng ra đi lại là
chuyện khác". "Tức anh bỏ em?". "Không. Anh mãi mãi
yêu em. Vì yêu em, anh ở lì đây khi Trung đã về, sẽ chẳng dễ chịu gì
cho cả bốn người". "Thế anh đi đâu?". Nhân im lặng. Đi đâu,
chính anh chưa rõ. Có thể anh ra Bắc thăm quê hương họ hàng. Có thể
anh đến chỗ bạn bè quanh vùng này. Hy vọng khoảng thời gian ấy sẽ
giúp anh và cả Hương, cùng tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho việc
đoàn tụ vợ chồng. Kết quả cũng có thể ngược lại điều anh mong
muốn. Nếu là ngược, anh không đóng vai cản trở việc Hương lựa chọn.
Hương nhắc lại: "Thế anh đi đâu?". Nhân kể mấy hướng dự định,
và nói Hương giữ kín chuyện này. Lúc cần trình bày với ba thế nào,
trách nhiệm thuộc về anh. Hương đồng ý và giao hẹn: "Anh đừng có
dối em!".
... Nhân đi rồi. Ông Nam thật
buồn. Hương thật buồn. Trung thì chẳng cần biết vì sao Nhân đi. Nó
biến khỏi cái nhà này càng hay. Mới mấy ngày trời giáp mặt nhau, ta
đã khó chịu quá rồi. Nếu còn kéo dài cảnh sống chung đụng, ta không
chịu nổi. Ta sẽ nổ tung. Đời ta có còn gì đâu để mà mất!
Sau bữa ăn tối, Trung mượn
rượu giở giọng cà Hương: "Sao mình không đi cùng thằng... gì
gì... nhỉ?". Hương im lặng. Hắn nâng chén trà tợp một hớp rồi
đưa ngang mặt Hương: "Mình uống chung với anh nào!". "Em
không quen dùng trà". Hắn nhích cái ghế nan, ngồi sát Hương, nói
khẽ: "Đêm nay chúng mình ngủ cùng, nghe em!". Hương đáp lại
bằng cái nhăn mặt.
Ông Nam ngả mình trên ghế
xích đu ở một góc sân gần bàn nước. Bề ngoài tỏ ra thờ ơ, song ông
nghe hết, thấy hết lời nói và hành động của anh con trai. Ông bực
lòng, ngồi bật lên khi hắn vừa buông ra câu nói: "Thằng cha cút
rồi, từ nay chúng mình trở lại vợ chồng như xưa, em nhỉ?". Cùng
với câu nói, hắn kéo tay Hương. Hương giằng co. Tiếng quát của ông
buộc hắn phải dừng tay: "Thằng Trung! Thôi ngay cái trò thối ấy đi!". Ông bước tới bên bàn
nước, hạ giọng: "Nhân sự việc xảy ra, nên ba nói trước hai đứa thế
này: Ba cấm ngặt thằng Trung giở trò sàm sỡ với con Hương. Con Hương
bây giờ là vợ thằng Nhân. Chứ không thể nào khác được. Đừng có làm
ba đau đầu thêm". Hắn giương cặp mắt
chó luộc nhìn cha: "Ba nói vậy, tức không cần con trở về?".
"Con không được hiểu lầm. Trong nhà này, ba cần cả ba đứa. Song
nên nhớ, mấy điều ba vừa nói phải coi là bất di bất dịch!". Ông
định nói dài, nhưng thôi. Nói vậy cũng tạm đủ. Việc cần thiết trong
nay mai là, phải sắp xếp chỗ ở mới cho vợ chồng thằng Nhân con Hương.
Rồi gọi thằng Nhân sớm trở về. Nó ra Bắc thăm quê là đúng. Tuy nhiên,
có thể còn điều tế nhị cu cậu khó nói ra. Cu cậu lánh xung đột với
thằng Trung. Và để xem lập trường mình,
cả con Hương, có thay đổi hay không. Thay đổi là cu cậu cứ thế rút
luôn một mạch đấy. Không! Ai cho rút. Để nó rút thì cái mặt mình,
mặt con Hương không còn là mặt người nữa... Rồi còn phải từng bước
tách riêng công việc sản xuất ra cho vợ
chồng nó. Sau nữa thì tính chuyện tìm vợ cho thằng Trung. Để mình
còn kiếm thằng đích tôn chứ. Vậy là mình lại phải lao đầu vào việc
"tậu trâu, lấy vợ, làm nhà" cho chúng nó. Vất vả không đáng
ngại. Chỉ lo thằng Trung phá tán, chẳng chịu nghe cha nó sắp đặt. Sao
nó hay thở dài oán giận chiến tranh, kêu mình mất hết? Riêng gì nó
mất. Mọi người trong cái nhà này, ai chẳng mất. Ai chẳng gánh nỗi
buồn nỗi đau. Ngay như cái sự lôi thôi đang xảy ra, nói cho cùng, đó
cũng là hậu họa chiến tranh. Chớ có nghĩ hết đạn bom thì mọi sự
đều ổn thoả. Liệu thằng Trung có còn vướng bận điều gì nữa không?
Trung không nói, hoặc chưa kịp
nói, làm sao ông Nam biết. Chỉ cái sự hắn mất khả năng sinh nở, nếu ông
biết, liệu có giữ nổi bình tĩnh không? Bởi trong ông, tư tưởng duy trì dòng
giống quan trọng ghê gớm lắm. Lần nghe tin con chết, ông từng điên đầu cả
năm. Hắn chết, tức ông tuyệt tự. Nay hắn trở về, hy vọng nối dài dòng
giống lại đang bùng lên trong ông. Vì thế với ông, một phen điên đầu
nữa thật khó tránh, khi nghe thằng Trung nói rõ thực trạng sức khỏe của
mình.
Đăng trên: - http://newvietart.com/index3.6374.html
- In trong tập Chuyện đời 3, Nxb Hội Nhà văn, 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét