Thứ Năm, 30 tháng 4, 2015

ÁM ẢNH(*)

Truyện ngắn Giang Trung Học
           Tên cúng cơm của bà là Hiên - Nguyễn Thị Hiên. Nhưng khoảng mười năm nay, người làng Vũ không ai gọi tên ấy nữa. Họ gọi là Bà Già Điên. Bà điên thật. Điên từ khi mọi người còn gọi bà là chị Hiên cô Hiên, hoặc gọi tên chồng: chị Hoàn cô Hoàn cơ. Được cái là, chưa một lần Bà Già Điên tỏ ra khó chịu với cách gọi ấy. Thì tớ điên thật mà lỵ! - vào lúc tỉnh cơn, bà từng toét miệng cười nói thế. Về phía dân làng, tuy gọi vậy nhưng với tấm lòng đầy cảm thông trìu mến Bà Già Điên. Sớm tối, nhiều người trong xóm, có cả các cụ khoẻ chân mạnh tay, vẫn hay lui tới trò chuyện, và đỡ đần bà những khi trái gió trở trời. Mọi người đều biết, khi cơn điên nặng trong bà bốc lên thì đừng có can ngăn. Can ngăn chẳng những không nổi mà đâm rách việc. Lúc ấy bà sẵn sàng chống trả bằng bất kỳ cái gì vơ được ở xung quanh.
            Tối nay bà lại lên cơn điên nặng. Như mấy trăm lần nó đã xảy ra trong suốt bốn chục năm qua. Từ sau ngày bà để mất đứa con trai độc nhất trong vòng tay mình đang ôm ấp nó. Đêm bà mất con tựa như tối nay. Tối nay không khí oi nồng đến ngạt thở. Do cái nắng nóng lên tới ba tám độ, chất chồng cả chục ngày toả ra. Lại thêm mất mưa. Gió cũng biến hút. Khiến sức trẻ khoẻ chống chọi còn tướt bơ, huống hồ già nua bệnh tật như bà. Ngồi trên cái ghế tựa ba nan, bà ngửa mặt nhìn trời. Tít trên cao, lưa thưa những ngôi sao lặng lẽ, thờ ơ. Sao thưa chẳng khác cái đêm xa lắc xa lơ trước kia. Đêm ấy bà với đứa con trai ba tháng tuổi phải vật lộn trên những cánh đồng nước sâu, nơi đất khách quê người. Bụng mẹ đói meo. Con thì khát sữa. Và trong tình thế lo âu sống chết cận kề. Bỗng bà nhớ nó da diết. Khiến cơn chóng mặt bốc lên, buộc bà phải đi nằm. Sau hồi thở dốc, khắp cơ thể bà nổi nóng phừng phừng, ý nghĩ lộn xộn, nửa tỉnh nửa mê. Bà đưa tay quờ sang hai bên, không thấy con đâu. Liền vùng ngồi dậy, quờ tìm khắp giường. Tay chạm phải cái gối, bà vội ôm lên vỗ về cưng nựng: "Con ơi! Mẹ đây... Mẹ đây!...". Và trong đầu bà chỉ thấy tiếng khóc ngằn ngặt của con, lẫn tiếng đạn bom ùng oành chát chúa. Thế là bà co cẳng chạy ra khỏi nhà. Rồi chạy thục mạng dọc con đường làng. Vừa chạy vừa hét: "Bà con ơi... giặc càn! Chạy thôi!...". Đương nhiên không ai chạy cùng bà. Bởi ai cũng biết Bà Già Điên đang lên cơn. Mỗi lần lên cơn nặng, đầu óc bà náo loạn những cảnh chạy giặc ngày xưa.
            Cái trận càn làm bà mất con vô cùng khủng khiếp. Mấy Zem quân viễn chinh Pháp cùng quân Chính phủ Bảo hoàng thay phiên nhau chà đi xát lại khắp một vùng đồng bằng rộng lớn. Chúng thực hiện bao vây từ xa rồi khép dần lại. Với ý đồ gom hết lực lượng Việt Minh vào khu vực nhỏ, và làm mấy mẻ cất vó là xong. Làng Vũ nằm trong khu vực nhỏ đó. Vì thế, nó là nơi phải hứng chịu đạn bom nhiều nhất. Những trận pháo kích dội đến ngày đêm. Với từng đàn máy bay Hencat, Vanh xit lao tới ném bom liên tiếp. Giặc hy vọng, Việt Minh không bị quét sạch hoàn toàn thì cũng kiệt sức chiến đấu. Khả năng chống trả sẽ không còn. Lúc ấy, sự hiện diện của Liên quân Pháp - Bảo hoàng chỉ là để tiêu diệt nốt số tàn quân đối phương, và làm công việc thu dọn chiến trường mà thôi!
            Trước đạn bom ác liệt, người già và trẻ con buộc phải sớm tản đến những làng tề để nương thân. Chị du kích Hiên thì cùng trai gái làng ở lại bám đất, rồi tuỳ cơ tìm cách cứu mình. Việc chống càn của du kích được lệnh tạm thời thủ tiêu, nhằm bảo toàn lực lượng. Chỉ nơi nào có quân đội chính quy tác chiến, du kích mới được tham gia phối hợp. Vì vướng con nhỏ, chị Hiên không thể chui hầm bí mật khi giặc tràn đến. Cuối cùng chị buộc phải ôm con hoà vào dòng người chạy quẩn.
            Như bao lần khác, Bà Già Điên lại ôm cái gối chạy quẩn. Bỗng nghe tiếng lão thả ống lươn quát từ ven ao: "Quay về! Quay về!". Nghĩ là tiếng quát của giặc, bà càng chạy thục mạng. Con đường làng lát gạch phẳng lỳ, thế mà bà suýt ngã mấy lần. Tại hai chân cứ díu vào nhau. Đến đoạn đường đồng, đàn vịt thấy động vội ào xuống nước. Nghe vịt chạy rào rào, bà cho rằng giặc đã chặn ở phía trước. Bà liền đổi hướng, cứ thế băng đồng nước ngập quá đầu gối; như cái lần chạy giặc bà để mất con.
            Lần chạy giặc ấy, từng dòng người ngổn ngang sao mà đông đến thế. Hầu hết là thanh niên nam nữ, và cả lứa tuổi trung niên. Họ bị giặc dồn từ các nơi đến đây. Ai cũng mang bộ mặt nhớn nhác lo âu; áo quần xộc xệch, ướt át, nhọ nhem. Hành trang của họ thường chỉ có vài thưng gạo hay nắm cơm, với bộ quần áo để trong tay nải hoặc cái bị cói. Chị Hiên ôm con nhập vào dòng người tứ xứ ấy. Họ chạy đâu, chị theo đấy. Có khi đang tất tưởi chạy hướng này, bỗng lại ào ào lội đồng quay hướng khác. Hướng nào cũng nghe tin giặc áp sát. Còn phải tránh máy bay và đại bác nữa. Mỗi khi thấy máy bay từ xa, ai nấy đều vội nằm rạp xuống; bất kể chỗ đó là cồn đống hay bờ ruộng, mặt nước. Để chúng phát hiện, lập tức ăn đạn  ngay. Còn thứ máy bay bà già thì vè vè nghênh ngang sát đồng lúa. Nó từng quăng lựu đạn xuống đám đông người. Nhưng không sợ bằng nó thả quả khói, xác định mục tiêu cho đại bác bắn về. Rất may, mẹ con chị Hiên luôn luôn nằm ngoài tọa độ bắn của đại bác. Tuy nhiên, mỗi khi đạn nổ oành oành chát chúa, con chị không tránh khỏi giật mình, khóc ré lên. Lúc này chị chỉ biết ôm chặt lấy nó. Và tiếp tục chạy…
            Chạy giặc ban ngày vất vả, nên ai cũng mong đêm tối xập xuống cho mau. Dù không bớt lo âu, song ban đêm còn được nằm ngồi chốc lát, để lấy sức chống chọi với gian nan vất vả những ngày tiếp sau.
            Đêm đầu tiên rời làng, chị Hiên ôm con tựa vào ngôi mả xây giữa bãi tha ma nơi lạ nước lạ cái. Đấy là suất ưu tiên con mọn, chị được những người bên cạnh dành cho. Lúc này còn nửa nắm cơm với muối vừng, chị cố nuốt để lấy sữa cho con bú. Miệng vừa khô vừa khát, nhưng chị chỉ dám nhấp tí nước cho dễ trôi cơm. Có chai nước đem theo, mẹ con đã dùng hết non nửa rồi. Chị từng uống nước ruộng, nên chai nước mới còn phần để dành. Cạn sữa, lại cạn nước, mai kia con chị lấy gì để sống. Sang ngày mai, nếu không nấu nổi cơm, chị đành nhai bỏng rang vậy. Những gói bỏng là suất ăn để ngồi hầm bí mật, chị đem theo thật đúng lúc. Không có nó, đến phải nuốt gạo sống như nhiều người thôi. Mẹ ăn uống thế, con chị đủ no sao được.
            Ngay đêm nay, chị đã thấy thằng bé không no bụng. Nó khóc suốt đêm. Đến gần sáng còn bị đi ngoài xoèn xoẹt. Từ đây nó nằm im không khóc, hẳn đã quá mệt. Chị cũng mệt, mà không sao chợp mắt nổi. Vì lo cho con. Vì lo ngày mai không biết chạy đi đâu. Số phận rồi sẽ thế nào?

                                                            *          *          *

            Thấy bóng người lóp ngóp trên bờ ruộng, hai đứa đánh dậm liền theo dõi. Đợi cái bóng đến gần, chúng cùng chĩa thẳng đèn pin và quát to: "Ai?... Đứng lại!". Cái bóng bị chói mắt, chững trong tích tắc rồi nhao đầu chạy vào cánh đồng lúa. Biết chắc là Bà Già Điên, vậy mà chúng vẫn lia đèn theo, còn bắn súng bằng mồm: "Pằng pằng pằng!... Đoàng!". Nghe chúng nói nói cười cười, có vẻ thích thú trò đùa ấy lắm. Nhưng rồi chúng ái ngại, bảo nhau: Trêu bà cụ, lỡ làm sao thì mang tiếng chết. Khổ thân bà cụ, ruột thịt chẳng có ai. May mà trời phú cho cái sức khoẻ. Lúc lên cơn điên có khi bà cụ khoẻ ra. Chạy nhảy, lội ao lội đồng suốt ngày đêm vẫn được... Mà sao yên ắng thế nhỉ. Loáng một cái không còn nhìn thấy bà cụ. Hay bị ngã. Giụi đầu xuống nước thì nguy. Một đứa liền soi đèn tìm kiếm.
            Sau hồi chạy bì bõm vượt cánh đồng lúa mênh mông nước, Bà Già Điên thấy mình thấm mệt. Vừa lên bờ ruộng đi một đoạn, hai chân như rời ra, bà đành ngồi bệt xuống cái mô đất. Phát hiện ra bà, Kiên - tên đứa đánh dậm, cất tiếng: "Bà ơi bà! Cháu người làng Vũ đây!". Nghe tiếng gọi, bà lại vùng chạy thục mạng, như cái lần chạy giặc xa lắc xa lơ trước kia.
            Lúc ấy đằng đông chỉ mới ửng hồng mấy tia dải quạt. Chị Hiên nhờ người ôm con để ra bờ ruộng giặt cái tã cứt cho nó. Nhưng chị vừa đi được mấy bước, thì nghe tin giặc đến gần. Người ta vội trao lại đứa trẻ cho chị. Vậy là cái tã không kịp giặt, mà không thể vứt đi. Chẳng phải chị coi là vật kỷ niệm, bởi nó được xé từ cái áo rách của chồng. Quanh chị không thiếu kỷ niệm của anh Hoàn để lại. Thứ lớn lao nhất chính là đứa con này đây. Còn là mảnh đất, ngôi nhà, do anh lao động cật lực làm nên. Là tình thương yêu anh dành cho chị trong gần một năm chung sống bên nhau. Là tấm ảnh người lính Vệ quốc quân và mấy bức thư của anh gửi về… Giờ đây, thằng bé chỉ có hai cái tã mang theo. Nó ỉa đái, phải tranh thủ giặt ngay. Tã ẩm, chị còn phải quấn vào bụng mình cho nóng lên. Trong tình huống khẩn cấp này, chị đành rung rung để cứt rơi ra, và vắt kiệt nước là xong. Rồi chị chùi tay xuống cỏ, sau đó quệt quệt vào hai ống quần mình. Hai cái ống quần liền được xắn lên quá đầu gối.  Đứa con cũng đã ấp ủ gọn gàng. Chị tức tốc lao theo dòng người chạy giặc.
            Chạy đi đâu, chị Hiên không biết. Giặc cách bao xa, cũng không biết. Chỉ loáng thoáng nghe nói: Nó đuổi sát sau đít ấy! Nhưng sao không thấy tiếng súng? Thì thiếu gì những trận càn, nó lặng lẽ áp sát để bắt sống người mình. Cho nên ai cũng cố chạy thật nhanh để mong thoát tay giặc. Ai cũng lo mình chậm chân, phải làm cái đuôi trong dòng người chạy trốn. Cái đuôi dễ bị giặc cắt lại trong những cuộc đuổi bắt như thế này. Cho dù phải ôm con thơ, chị Hiên vẫn đủ sức vượt qua nhiều người. Chị còn cả gan lội sông, nước ngập ngang ngực. Vì không muốn xô đẩy nhau trên cây cầu gỗ ọp ẹp, vừa chậm vừa khó bảo đảm an toàn. Chị sang được sông thì trời sáng bảnh. Nhìn trở lại, bên kia cầu còn đông nghịt người. Giặc mà ập đến, đám đông ấy khôn hồn trốn thoát. Và cả ngàn người chạy giặc liệu có thoát? Vừa nghĩ chị vừa gắng sức lao theo những người khỏe chân mạnh tay. Áo quần từ ướt sũng đến khô dần. Đột nhiên có tiếng gọi chuyền nối nhau vang lên: "Đồng bào hãy bình tĩnh. Không phải giặc đuổi đâu!". Tiếp đó là những câu hỏi cùng lời đáp: “Không phải giặc thì là gì?”. “Là anh em bộ đội huyện được lệnh bỏ đất ấy mà!”... Bộ đội chủ lực rút lui. Đến lượt địa phương quân bỏ đất. Vậy dân chạy đâu cho thoát chết đây? Chạy đâu chưa biết. Chỉ biết ngay tức khắc, ai ai cũng được thở phào. Bởi tạm bớt đi chút lo âu đang căng lên ở từng người.
            Nay, chuyện chạy giặc ngày xưa đã trở thành quá vãng xa vời. Nhiều người gần như không còn nhớ gì cụ thể. Nhưng Bà Già Điên thì vẫn vanh vách kể ra nhiều điều ở cái thời loạn ly ấy. Có thể vì nỗi đau khiến bà khó quên. Nỗi đau đã ám ảnh và hình thành những cơn điên trong bà suốt từ mấy chục năm qua.
            Bà Già Điên vùng chạy trốn hai đứa đánh dậm, cho tới khi chạm con đường đá cắt ngang thì dừng lại. Bà phục bên rệ đường, dõi nhìn, nghe ngóng. Một bên nách không quên cặp chặt cái gối ướt sũng nước. Vì không thể rành rọt những gì đúng sai, nên trong đầu bà tất thảy đều là giặc. Thấy bóng mấy người đi đường, bà nghĩ là giặc, vội lủi vào bờ lúa. Thấy ánh đèn ô tô từ xa lấp lóa, bà ghì chặt cái gối vào bụng, thầm bảo: "Giặc chiếu đèn pha đấy. Con ngoan, không được khóc. Khóc, nó nghe thấy thì chết. Đêm nay mẹ con mình phải vượt vòng vây thôi!”. Hình ảnh về cái đêm vượt vòng vây giặc ngày xưa đang làm xáo trộn đầu bà, vừa thực vừa hư.
            Ngày ấy, dòng người chạy giặc không tới được vùng đồng chiêm trũng, nước mênh mông bạt ngàn, với hy vọng có thể nương thân an toàn. Do vòng vây giặc đã chặn ngắc đường đi. Song, con đường sống duy nhất vẫn là: Phải vượt vòng vây! Vượt vòng vây liệu có nổi? Chẳng ai dám chắc. Nhưng không thể trù trừ. Trù trừ tất rơi vào tay giặc. Sẽ không thoát sự tra khảo, hãm hiếp, giết chóc, tù đày... Thế là cuộc vượt vòng vây diễn ra trong đêm khuya theo một hướng khác. Cái đêm ấy sao thưa, không khí oi nồng đến ngạt thở. Dòng người xếp thành hàng một nối đuôi nhau, lầm lũi thận trọng dò từng bước trên đồng lúa nước sâu. Chặng vượt dài chừng một cây số. Một bên là đồn giặc. Một bên là chốt đóng quân ban đêm của lính Zem tham gia càn quét. Chỗ luồn vòng vây gần giặc nhất chỉ hơn một trăm mét. Cho nên nghiêm cấm phát ra bất kể loại tiếng động nào. Nghĩa là không được nói gọi nhau. Không rên rỉ khóc than. Cấm cả tiếng lõm bõm khi lội nước. Đến sát đồn giặc phải dãn cự ly. Bị đèn pha quét, phải lập tức ẩn nấp tại chỗ. Những ai thấy khó thực hiện thì tự giác không vượt vòng vây. Ai để lộ, gây thương vong cho đồng bào sẽ bị trừng trị. Đấy là những quy định bắt buộc. Quy định không biết do ai đặt ra, nó bất thành văn, song mọi người trong cuộc đều rất coi trọng. Bởi nó can hệ đến sinh mạng của bao nhiêu con người.
            Lúc đầu chị Hiên lưỡng lự trước cuộc vượt vòng vây. Chẳng phải chị thiếu quyết tâm, mà sợ con khóc. Nó chỉ oe oe mấy tiếng là thả sức ăn đạn giặc. Giữa đồng không mông quạnh, ẩn nấp vào đâu cho thoát. Nhưng nếu chị dừng lại? Chắc chắn bị giặc bắt. Cái chết rất có thể xảy ra. Rơi vào tay giặc, ắt không tránh khỏi bị hãm hiếp. Thật ghê khi gặp phải lũ Tây đen. Ở làng bên có cô gái to khoẻ bậc nhất, bị lũ Tây đen thay nhau làm nhục đến chết. Rồi còn con chị, làm sao nó sống nổi khi rời  mẹ. Vậy nên, bắt buộc chị phải chọn con đường vượt vòng vây. Dù có thế nào, vượt vòng vây vẫn là hơn. Cái không may xảy ra do con khóc, điều này chỉ là dự tính thôi. Thằng bé vốn ít khóc, khi bụng đã no sữa. Phần nữa, nó đang rất mệt vì bị đi ngoài, nên chỉ nằm im. Trước lúc vào cuộc, chị cố vắt bầu vú để con bú thêm. Rồi cởi cái khăn vuông trên đầu chị, làm địu treo nó ở đằng trước. Những ngày qua, nhờ cách này mà chị ôm con chạy giặc cũng đỡ mỏi tay. Đoạn lội đồng đêm nay không dài, với cách địu con như thế, khiến chị yên tâm. Cả khi gặp tình huống phải tháo chạy thật nhanh, cũng không quá ngại.
            Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, chị bình tĩnh hít  từng hơi thở cho căng lồng ngực. Bình tĩnh nhìn những chùm pháo sáng, thỉnh thoảng lại vụt lên bầu trời mờ mờ sao. Bình tĩnh trước tiếng nổ của các loại súng đại bác, liên thanh, chốc chốc lại vang lên ùng oàng, tạch tạch... Bình tĩnh, lúc này thật cần thiết. Và cẩn thận hơn, chị còn khấn cầu chồng phù hộ hai mẹ con chân cứng đá mềm, tai qua nạn khỏi.
            Vậy mà, không hiểu sao tai ương lại giáng xuống đầu mẹ con chị.
            Thấy chị ôm con hoà vào dòng người lặng lẽ vượt vòng vây, ai đó khẽ nhắc: "Chị phải đề phòng tiếng khóc của trẻ". Chị vui vẻ "vâng". Nếu điều đó xảy ra, chị sẽ gập người để ngăn tiếng khóc của nó không bay ra xa. Chứ chẳng thể bóp chặt miệng con. Điều quan trọng hơn là, phải giữ làm sao để nó không khóc.
            Càng tiến đến gần đồn giặc chị càng thấy tim mình đập mạnh hơn. Mỗi bước đi, mỗi bước lo. Một tay chị ôm con sát bụng mình, tay kia xoa nhẹ lên người nó. Mong sao con chị nằm yên. Nằm yên độ nửa giờ thôi. Khoảng thời gian ấy, dù bị ùn tắc cũng thừa sức vượt qua chặng nguy hiểm nhất. Đang lúc chị ngang đồn giặc, thì gặp pháo sáng ngay trên đỉnh đầu. Cái thứ ánh sáng xanh lét như mắt ma ấy không doạ dẫm nổi chị - người nữ du kích từng nhiều lần cùng bộ đội đi đánh đồn giặc. Nó chỉ nạt nổi những ai yếu bóng vía thôi. Nó lơ lửng tít trên cao kia, lũ lính gác có căng mắt nhìn cũng khó phát hiện được gì. Nhưng dù sao chị vẫn phải dừng chân. Bởi phía trước, dòng người đâu có tiến. Dừng ở khoảng cách gần giặc nhất, thật bất lợi cho mẹ con chị. Chỉ một tiếng khóc từ thắng bé vang ra, rất có thể bị lộ. Tai họa sẽ không riêng mẹ con chị gánh chịu. May thay thằng bé vẫn ngủ ngoan, khiến chị vừa sung sướng vừa hồi hộp.
Niềm sung sướng trong chị càng tăng lên khi thấy mình vừa vượt qua điểm nguy hiểm nhất.
Bỗng từ trong đồn, giặc bắn xối xả, cùng những vệt đèn pha loang loáng sát mặt lúa đồng. Tức thời, chốt đóng quân của lính Zem cũng nổ súng hùa theo. Tuy chúng bắn rát, nhưng có lẽ chỉ là bắn vu vơ, nhằm thị uy sức mạnh vũ khí mà thôi. Tiếng nổ làm thằng bé giật mình khóc ré lên, khiến chị hoảng hốt. Song chị định thần được ngay. Chính tiếng súng đã át tiếng khóc của con chị. Khi chúng nó dừng bắn mới là mối nguy hiểm cho cả đoàn người vượt vòng vây, nếu thằng bé còn khóc ngằn ngặt thế này. Nên, ngay lúc này, khi chúng nó đang say bắn loạn xạ ầm ầm, chị phải cố vượt ra xa đồn giặc. Và, chị đã chớp được thời cơ. Tiếng súng vừa chuyển hướng, chị liền vùng chạy thật nhanh. Bây giờ, dù thằng bé có khóc to, dù tiếng nước có lõm bõm, vẫn chìm đi trong tiếng súng râm ran như pháo nổ giao thừa.
Lúc chị vừa khom khom đứng lên, đã thấy mấy người vội vã vượt qua. Họ giục nhau chạy nhanh hơn nữa, để tránh giặc bắt sống. Nhử kẹo, chúng nó cũng không dám lao vào đêm tối - chị còn đủ tỉnh táo để thầm nghĩ thế. Nhờ tỉnh táo, lại có kinh nghiệm phòng đạn bom, nên ngay lúc đó chị tránh được cái chết cận kề. Nghe tiếng nổ đầu nòng, chị biết súng giặc đang chuyển dần về hướng mình. Chị vội nằm rạp xuống bờ ruộng. Tức thời, làn đạn chiu chíu sát sạt đầu. Mẹ con thoát chết. Nhưng chị thầm lo, vì thằng bé bị va xuống đất. Va nhẹ, song với sức nó có thể là không bình thường. Hình như nó đã hết sức để khóc to. Tiếng khóc như hụt hơi. Chứng tỏ là nó bị đau.
            Nếu thằng bé chỉ bị va đập thế thôi thì bi kịch không thể xảy ra.
Đáng buồn hơn là, nó lại bỏ chị khi mẹ con đã vượt khỏi vòng vây. Vào cái lúc chị đang chờ đò qua sông để sang vùng an toàn. Đại bác giặc đã giết chết nó ngay trong vòng tay chị. Cái mảnh gang bé tẻo teo chết tiệt găm trúng đầu thằng bé, cho dù chị đã lấy thân mình che nó. Chị đau đớn chôn xác con tại một bãi cát trong đê, phía bên kia đò. Nơi ấy cách làng chị tới gần hai chục cây số.
            Từ đấy hình ảnh cái bến đò và đứa con thơ luôn luôn ám ảnh dày vò chị ngày đêm, quanh năm suốt tháng khôn nguôi. Những khi trái gió trở trời, chị phát điên thật sự. Mỗi lần nổi cơn điên thì hình ảnh đứa con thơ chết trên tay mẹ lại hiện lên nguyên vẹn, rành rành. Thời sung sức, đôi lần dân làng còn thấy chị điên vì tình. Những trận điên tình, đám đàn ông con trai rất sợ gặp chị. Sợ chị ôm chầm lấy họ, để hôn hít, sờ soạng, rủ rê... Thấy cảnh ngộ chị, ai nấy đều thương. Tuổi mới hăm bốn hăm lăm, lại khoẻ mạnh như thế mà mất chồng mất con thì còn nỗi khổ nào bằng. Thương nhưng không biết giúp gì cho chị. Thế mà có một độ, ai đó ác ý lại tung tin: Chị Hiên giết con!(?) Đương nhiên tin ấy bị dư luận chôn vùi tức khắc. Chị không cần một lời thanh minh. Có điều, những khi tỉnh táo nghĩ đến cái ngày ôm con chạy giặc, chị từng tự hỏi: Nếu như lúc vượt vòng vây, tiếng khóc của thằng bé trở thành nguy cơ tính mạng cho cả đoàn người, mình sẽ xử trí thế nào? Vì sự an toàn cho số đông, mình có dám bạo gan hạ sát con, như một câu chuyện hoang đường từng lan truyền trong thiên hạ? Tự đặt ra câu hỏi, nhưng chị thấy không cần trả lời. Chỉ buồn một nỗi, cuộc chiến đã cướp mất chồng mất con, khiến chị trở thành điên dại.
            Đêm nay, trong cơn điên, hình ảnh cái bến đò xưa lại hiện lên trong đầu Bà Già Điên. Rồi tình cờ bà gặp con sông, cây cầu - chỗ giáp ranh giữa địa phận làng Vũ với làng bên. Thế là bà nghĩ ngay đến việc tìm kiếm mộ con. Hai bàn tay bà không ngừng cào sâu trong bùn đất ven đê, nơi chân cầu. Cào rồi bỏ. Hết chỗ này lại cào chỗ khác. Đến cạn hơi kiệt sức vẫn không thấy gì. Bà ngửa hai bàn tay, đưa sát mắt vẫn không thấy gì. Sau cùng, Bà Già Điên với mái tóc ngắn rũ rượi như một bóng ma, đành ngồi bệt bên mí nước sông… gào khóc… gọi con… bằng cái giọng khản đặc thảm thê, đứt quãng...
            Lúc này, hừng đông chưa hẳn tỏ mặt người.
                       
-  In trong tập Chuyện đời 3, Nxb Hội Nhà văn, 2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét