Khát vọng văn chương
(Đọc Quãng
thời gian của đời người, tác giả Giang Trung Học,
đăng trên Văn nghệ số 38, 9-2001)
Lời bình của Ngô
Hải Phượng
(Giảng viên Đại
học Tây Bắc - Thuận Châu - Sơn La)
Đăng trên Báo Văn
nghệ số 40 (6/10/2001)
Quãng thời gian
của đời người là truyện ngắn khá hay với lối viết trầm kín và sắc sảo. Chỉ là một
“quãng thời gian” thôi, rất ngắn ngủi, một khúc đoạn của con người mà cuộc đời
còn được sống: Sự lao động thầm lặng của người nghệ sĩ.
Nhân vật Điền
trong Trăng sáng của tác giả Nam Cao cũng viết văn trong hoàn cảnh nghèo túng
cho những kiếp người nghèo túng và nhân dân lao động nói chung, còn “hắn” -
nhân vật không tên tưởng như nhạt nhòa ấy lại viết truyện làm “rộn lên dư luận
khắp thành phố”. Tuy rằng ở những phạm vi khác nhau song cả hai “nhà văn trong
văn” này đều có chung một lý tưởng: sống và viết.
Vẫn là cái nghèo
nhưng không hèn bám riết lấy kiếp (nhân) văn chương muôn thuở, song vẻ đẹp cao
thượng, trong sạch, chí tôn đã giúp cho văn chương thăng hoa. Hắn trong Quãng
thời gian của đời người và cả Điền trong Trăng sáng đều có được cái nhìn nhân từ
sẻ chia, tôn thờ của người vợ. Vẻ đẹp nhân văn của con người làm bệ phóng để một
thương binh như “hắn” chiến đấu với thương tật do chiến tranh để lại và cao hơn
nữa, chiến đấu cho lẽ sống trên đời. “Hắn” thật xứng đáng là một anh bộ đội cụ
Hồ cả ở thời chiến lẫn thời bình. Ở bất cứ mặt trận nào “hắn” cũng không đầu
hàng: “Nhìn thẳng vào sự thật thì người nào cũng muốn cả. Nhưng nói cho rõ sự
thật thì chẳng phải ai cũng dám đâu”. Đấu tranh trên mặt trận không tiếng súng
nhân vật “hắn” đã rất anh dũng. Đấu tranh với cuộc đời để “Thuốc đắng dã tật”
“hắn” lại càng anh dũng hơn. Cứ thế, cháy cạn mình cho mộng văn chương.
Mở đầu trang
truyện tác giả đã đem vẻ đẹp thanh khiết cao cả của văn chương đối lập với giá
trị đời thường vật chất. Nói chính xác hơn là đặt bên cạnh nhau. Một cái giá thật
thấp “Cái truyện của hắn bằng hơn ba cần thịt chó” hoặc “bữa bún chả”. Thật
không xứng đáng chút nào giữa đạo văn và đời thường, vật chất nhưng đó là sự thực
một trăm phần trăm. Điều đặc biệt mà chúng ta thấy ở đây, đó là vẻ đẹp thanh
khiết cao cả ấy không bị đổ vỡ hay lút đi, chìm đi hoặc biến mất. Người sống
lâu đầu cần nhiều tuổi. Là đàn ông, người ta chỉ cốt làm được một điều mình muốn,
xong rồi chết ngay cũng được…”. Đó là khát vọng của một nhà văn chiến sĩ chân
chính. Chiến tranh cộng với lao động đã làm “hắn” không gục ngã - phải chăng
nguồn sinh lực đó chắt từ văn chương và lòng người - một tâm niệm “Phải viết để
giành giật với quãng thời gian của đời người”.
Cốt truyện nhẹ
nhàng, chậm rãi, không đao to búa lớn hay hô khẩu hiệu. Nó dung dị và mộc mạc.
Giá trị chủ yếu của truyện, theo tôi nằm ở hai giác độ chính: người lính và người
nghệ sĩ sống trong đời. Nếu ở phạm vi lớn hơn, nó có thể được coi như một tuyên
ngôn nghệ thuật kín đáo, tế nhị.
“Quãng thời gian
của đời người” có lối văn mộc mạc và khiêm nhường, lối dẫn truyện giản dị tinh
tế, bình lặng. Cách gọi tên nhân vật chung chung cũng đáng suy nghĩ. Mong rằng
“Văn nghệ” sẽ có nhiều truyện ngắn hay hơn nữa.
NHP
QUÃNG THỜI GIAN CỦA ĐỜI NGƯỜI(*)
Truyện ngắn Giang
Trung Học
Bặt đi
mấy chục năm, nay lại thấy tên hắn trên mặt báo. Cái truyện ngắn của
hắn in báo Văn học vừa rồi, làm
rộn lên nhiều lời bình phẩm. Sau đó, một buổi chiều nọ, hắn đưa vợ
khoản tiền nhuận bút đúng một trăm nghìn đồng. Vợ hắn nói:
- Những trăm nghìn cơ
à? Nhiều nhỉ?
Hắn gượng cười:
- Ừ nhiều. Bằng cái truyện ngắn năm nghìn
từ của anh đấy. Số tiền ấy em làm gì?
- Em khao cả nhà thịt
chó. Mua một cân chỉ mất ba mươi nghìn đồng.
Vậy là giá cái truyện
chỉ bằng hơn ba cân thịt chó. Vẻ xót sa thoáng hiện trên khuôn
mặt hắn. Thực ra thì, hắn đâu dám viết vì tiền. Đến cả các bậc
tiên sư nghề văn chương còn chịu sống nghèo khổ kia. Hắn xót sa
là bởi đã bất chợt nhìn cái truyện của mình bằng
cặp mắt thực dụng. Với hắn, việc cầm bút là xuất phát từ ý thích
mà thôi.
Ý thích
viết văn trong hắn nảy nở ngay khi còn học phổ thông kia. Nhiều bài
văn học trò của hắn nổi tiếng cả thành phố. Năm học đại học đầu
tiên hắn đã có mấy truyện ngắn đăng báo. Bạn bè đều hy vọng hắn sẽ
trở thành nhà văn. Năm sau, hắn đoạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn của báo
Văn học. Mấy anh lãnh đạo báo này bảo, hắn tốt nghiệp, sẽ đánh công
văn lấy về toà soạn, cốt tạo thuận lợi cho hắn trưởng thành. Rồi
gần một năm không thấy hắn lui tới, họ mới hay, nhà văn
tương lai này đã ra mặt trận.
Chiến tranh không chừa
một ai. Đợt hắn ra trận có hàng trăm sinh viên cùng trường. Người ta
chúc hắn tìm được hạnh phúc lớn trong chiến đấu chống quân thù. Quân
đội và chiến trường là trường đại học vĩ đại nhất. Đây là cơ hội
nghìn năm dành cho lớp trẻ. Vì Tổ quốc, hãy xếp bút nghiên, trút bỏ
riêng tư...
Là kẻ có thiên hướng
văn chương, hắn nhận mặt chiến tranh từ nhiều góc độ khác nhau: Ta -
địch, thắng - thua, đạn bom, máu và nước mắt; cả niềm tin và sự hoài
nghi; cả lạc quan lẫn giao động... Theo đó là một
loạt nhận thức ngự trị trong hắn được kiểm chứng, đảo lộn, sàng
lọc. Tuy nhiên, suốt chục năm chiến trận, hắn không một hành vi để bị
coi là kẻ nhát gan, ham sống sợ chết. Hắn (và cả đoàn quân) xác
định: Chỉ một con đường trở về quê hương bằng quyết tâm quét sạch kẻ
thù! Điều đó, là người lính, hắn tâm niệm như chân lý vậy. Ngày về,
hắn không nghĩ say sưa với những tấm huân chương đỏ ngực. Nhưng tự đắc
có một ba lô đầy ắp truyện và tư liệu viết văn. Hẳn không trí tưởng
tượng nào thay thế được hiện thực oanh liệt và tàn khốc nơi chiến
trường, chọi nhau bằng tất cả phương tiện giết người tàn bạo nhất ở
nửa sau thế kỷ hai mươi này.
Không quá tin vào bộ
nhớ trời cho, đúng hơn là cha mẹ cho, hắn đã ghi chép lại mọi tình
tiết chiến tranh. Ghi và sáng tác. Hắn mô tả từng trận đánh thắng
thua; về ta, về địch; về cái chết của đồng đội; về những cơn đói,
cơn khát và trận sốt rét rừng... Hắn làm công việc ấy như tranh cướp
thời gian, như thể không làm là có tội. Hắn làm lúc đồng
đội nghỉ ngơi. Đồng đội ngủ thì hắn thức. Viết cả trong chiến hào
chờ giặc. Có lần hắn bị đại đội trưởng nhắc nhở vì làm việc quá
sức. Sự nhắc nhở ấy chỉ gợn lên nỗi buồn thoáng qua. Cứ nhìn cái
ba lô phình to thêm mỗi ngày là hắn
sướng. Trong đó chỉ một bộ quân phục sờn rách với đống giấy tờ
gồm tư liệu và bản thảo sáng tác viết tay. Hắn
viết bằng các loại giấy xin từ đồng đội, cả
những tờ giấy lượm vội trên đường truy kích giặc. Có tờ giấy dính
máu nữa. Thỉnh thoảng hắn lại lôi xấp bản
thảo khỏi ba lô. Để ngắm nghía. Để đọc lại. Để sửa chữa. Thêm một
dấu phảy. Bỏ một từ. Thậm chí, vất đi cả trang. Một vài truyện,
hắn đánh giá hơn đứt cái giành giải báo Văn học năm xưa. Vậy mà hắn
vẫn không dừng sửa. Nghề viết văn khó nhọc, hay
hắn kém tài? Chắc cả hai. Dễ thì khối kẻ ngốc ngếch đã "điếc
không sợ súng" để nhận mình
là nhà văn, cho dù văn chương rẻ như bèo.
Ở đơn vị,
đôi lần anh em cũng gọi hắn là nhà văn. Hắn cười trừ, cốt
thay cho những lời thanh minh. Được chút năng khiếu đâu phải ai cũng sẽ
trở thành nhà văn. Khối anh in
quyển nọ, quyển kia vẫn chẳng là gì. Có người chỉ bằng bốn câu thơ
(mười sáu từ) nổi tiếng, đủ để thiên hạ nhớ đời, suy tôn là thi sĩ,
nhà văn. Mới phục làm sao! Thôi thì, thích viết, hắn cứ viết cái
đã. Cứ viết tập, tập viết đi. Chỉ tiếc không có điều kiện
nhờ văn đàn kiểm chứng sự thành công của hắn tới mức nào.
Nhiều năm rồi, đơn vị
hắn luồn sâu trong trận mạc. Có thời gian hắn còn đơn thương độc mã
nơi núi rừng heo hút. Điều kiện liên lạc với bên ngoài hết sức khó
khăn. Hắn ước làm sao gặp được người tin cẩn để gửi vài cái truyện
đi in. Những truyện này hắn không ghi bút danh, mà dùng họ và
tên cúng cơm do cha mẹ đặt. Được in, hắn coi như bắn mũi tên
trúng hai đích. Một là, hắn thêm
niềm tin vào lao động nghề văn. Hai là, loan ra cái tin hắn vẫn sống,
để cải chính lời đồn hắn chết từ lâu. Họ và tên
hắn chẳng thể trùng với ai. Họ rất
Tàu, tên thì thật
trúc trắc. Vậy mà năm tháng trôi đi, mấy cái truyện ghi sẵn họ tên
cúng cơm ấy không thoát ra khỏi ba lô của hắn. Nét chữ cứ nhoè nhoẹt
dần trên trang giấy ố màu thời gian và cát bụi chiến trường.
Hắn đành thầm an ủi: Mày là máu thịt tao. Mày rời xa tao làm sao
được. Cảm ơn lòng chung thuỷ của mày. Không mày, hẳn có phút tao
buồn đến chết!
Thế rồi, chỉ trong
chốc lát, tuốt tuồn tuột những gì theo cái ba lô của hắn đều bị bom
B52 xoá sạch. May mà đồng đội còn móc được hắn ra từ trong lòng đất.
Sau nhiều ngày bất tỉnh, khi vừa thấp thoáng nhận thức trở lại, hắn
u ơ hỏi người điều trị ở trạm cấp cứu trung tuyến:
- Cái...
ba... lô?...
- Ba lô nào?
- Của... tôi... Trả...
cho... tôi...
Nhưng trạm cấp cứu
không hề nhận bàn giao cái ba lô của hắn. Ba lô lính trận thì có gì
quan trọng đâu. Quá lắm, bức thư tình của người hậu phương được xem
là vật quý giá nhất. Để an thần hắn, người thày thuốc trẻ nựng:
- Bọn này sẽ bằng mọi cách kiếm lại
cho cậu cái ba lô ấy nhé. Biếu cậu cả bộ quân phục mới toanh... ngay
trước giờ xuất trạm, được chưa? Hãy yên tâm điều trị đi!
Mấy ngày sau, nhân
chuyến nhận thương binh do đơn vị hắn chuyển đến trạm,
mọi người mới rõ sự tình. Cái ba lô chữ nghĩa của hắn đã bị bom
vò xé nát bươm. Giấy tờ vụn như xác pháo. Cả máu hắn đỏ lòm. Nên
không ai quan tâm nhặt nó nữa. Khi ấy, việc khẩn cấp là cứu thương
binh và tìm tử sĩ kia. Nghe kể, hắn bật khóc nức lên trong giây lát.
Rồi lịm đi vì không còn sức. Mỗi lần tỉnh táo, hắn lại tiếc đứt
ruột.
Sau gần một năm điều
trị tại trạm xá và các viện quân y, sức khoẻ hắn hồi phục tạm ổn.
Kế liền là sự kiện lớn: Chấm dứt chiến tranh, đất nước thống
nhất. Hắn từ một trạm an dưỡng mãi tận phương Nam trở
về nhà. Mẹ già hắn đã qua đời. Người yêu thời sinh viên cũng không
còn chờ đợi hắn. Nàng buồn rầu nói:
- Chẳng có tin báo tử
anh đâu. Nhưng mọi người đều nói rõ anh đã hy sinh. Mà đằng đẵng đến
gần mười năm không tin tức của anh. Tuổi con gái chúng em thì chỉ có
thời. Xin anh đừng trách em!
Đúng là hắn không thể
trách nàng. Chỉ có nỗi buồn chất chồng gậm nhấm hắn. Thế là hắn
mất tất cả. Chiến tranh đã cướp đi tất cả. Sức lực hắn. Người yêu
hắn. Cả cái ba lô kia nữa. Cái
ba lô, đó là công sức và trí tuệ
hắn ở thời kỳ trai trẻ sung sức nhất, đã dồn vào đấy. Nó là niềm
tin và hy vọng của cả cuộc đời hắn.
Nhưng, "Làm trai
phải giàu ý chí. Có chí thì nên tài nên nghiệp" - lời
mẹ dạy ngày xưa, hắn chẳng thể quên. Đó là
nguồn sức mạnh tiếp sức cho hắn vượt mọi khó khăn gian nan. Tiếp sức
cho hắn còn cả cô hàng xóm tốt bụng. Cô tìm sách cho hắn đọc. Phích
nước nóng buổi sớm cô đưa sang. Giúp hắn mua mớ rau, con cá. Cả khi
trái gió trở giời, cô lo chạy chữa vết thương cho hắn. Hắn ơn cô
nhiều lắm.
Một lần, sau khi nghe
hắn dốc bầu tâm sự, cô khuyên :
- Anh đừng trở lại
trại thương binh làm gì. Xa xôi lắm. Sống tại nhà mình anh không thích
ư?
Hắn khẽ khàng đáp:
- Thích... Nhưng anh sợ
ở nhà rồi sẽ có ngày cô đơn.
- Thế anh không tin em
à?
Hắn ngập ngừng:
- Anh tin.
Nói vậy nhưng hắn cứ
thấy ái ngại. Sức lực hắn không còn để mà xông pha. Là đàn ông dù
sao cũng phải nghĩ đến vai trò trụ cột trong gia đình. Hắn chỉ đủ
làm cái trụ mục thôi. Còn hình thức nữa. Vết sẹo dài chạy suốt má
trái, đã đẩy hình thức hắn xuống cấp mấy lần. Nhất là khi hắn
cười, cặp môi xệch đi càng khó coi. Ôi cái sẹo! Cho dù
nguyên nhân nào tạo thành, thì cái sẹo vẫn chỉ là cái sẹo. Không
thể có cái sẹo này mang vinh quang hơn cái sẹo kia.
Cô hàng xóm thấu hiểu
nỗi niềm băn khoăn của hắn. Để xoá đi, cô đặt nhẹ nụ hôn lên vết sẹo
ấy.
Cô chính là người đàn
bà nhận khoản tiền nhuận bút cái truyện ngắn do hắn cầm về. Đầu
tháng không kiếm đâu ra thịt chó; vợ hắn trổ tài, làm bữa bún chả thật
ngon. Còn cả lời động viên:
- Nhờ nhuận bút của
anh mà mẹ con em được bữa khao.
Và những dòng suy
tưởng, nàng thủ thỉ bên tai chồng:
- Một trăm nghìn đồng
bằng nửa tháng lương kỹ sư mới ra trường cơ đấy. Thế mà anh viết cái
truyện, tính gọn lại chỉ hai ngày. Hai ngày được một trăm nghìn
đồng. Thích thật! Nếu khoẻ khoắn, mỗi tháng anh viết nổi mười lăm
cái truyện. Hai ngày một cái mà. Thì tháng nào nhà
mình cũng có thêm một triệu rưởi đồng, anh nhỉ?
Nghe vợ nói thế, hắn
chẳng trách. Giá vợ hắn ngồi ghế quan trường, đặt chủ trương ở tầm
vĩ mô thì mới đáng sợ. Hẳn hàng tháng mỗi nhà văn phải đẻ được
một quyển truyện vài trăm trang mới đủ định mức để lĩnh lương. Vậy
mà cũng mê văn chương đáo để. Biết cụ Nguyễn Du viết truyện Kiều.
Biết Tố Hữu có “Từ ấy” và “Việt Bắc”, bị một nhà thơ chê hơn chê
kém, khiến có lúc ông bực mình. Biết cả Xuân Diệu nổi tiếng thơ
tình nhưng phụ nữ không mê lấy ông.
Tuy yêu văn chương thật
đấy, song vợ hắn không thích chồng cầm bút viết văn.
- Không thích là tạm
thời thôi anh ạ. Sức khoẻ anh yếu lắm. Anh lao vào sáng tác văn
chương, nhỡ làm sao thì không chỉ riêng anh, cả em đều khổ. Cho nên anh
phải chờ đợi khi nào sức khoẻ phục hồi đã!
Đó là lời khuyên từ
ngày hai người vừa nên vợ nên chồng. Vì nể, hắn nghe. Chẳng cô vợ
nào sung sướng khi có người chồng ốm yếu. Nên, bằng mọi cách hắn
bồi bổ sức khoẻ. Sớm tối thể dục đều. Nghỉ ngơi và giữ cho cái đầu
vô tư. Hạn chế chung đụng vợ chồng... Rồi, thoắt cái mấy năm qua đi.
Chẳng thấy sức hắn khá hơn. Mỗi khi thời tiết thay đổi, vết thương
cũ lại làm hắn đau đớn khắp người. Khó thở. Huyết áp tăng. Da dẻ
xạm đen lại. Có lần phải đi cấp cứu.
Tiếp đến, vợ hắn có
mang. Nhìn cái bụng to ình nặng nhọc, hắn thương. Hắn lầm lũi gánh
thêm việc nhà. Nấu nướng. Giặt giũ. Quét dọn. Cả chợ búa nữa. Ra
chợ, hắn có lợi thế không phải xếp hàng, nhờ cái thẻ thương binh.
Vợ hắn đi làm nhà máy vắng cả ngày, nên ngăn hắn cũng không nổi.
- Anh làm những việc
này chỉ mất ít thời giờ thôi, chẳng tốn sức lực gì đâu. Lao động
nhẹ nhàng cho người nó khoẻ khoắn ra - hắn bảo thế.
Chị vợ ngả đầu vào
ngực hắn, nói lời xúc động:
- Em yêu anh nhiều
nhiều. Không có anh, em biết làm sao!
Hết thương vợ mang thai
đến đoạn hắn hầu đẻ. Hắn không thể mang ý chí kiên cường ra để
giành toàn thắng. Dù có gắng gượng thế nào, hắn cũng không giấu
được sự suy sụp trên cơ thể. Trong vòng một tháng, hắn tọp xuống đến
thảm hại. Cái mặt gồ lên những xương xẩu và dài ngoẵng ra. Râu ria tua
tủa. Mới hay điều các cụ dạy thật chí lý: Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn!
Sau nữa là chặng thời
gian nuôi con. Con tròn một tháng tuổi, vợ hắn đến hạn đi làm. Mướn
người trông con thì thôi bàn tính. Lấy tiền đâu ra để trả người ta. Nhưng
hắn lại không cho gửi con nhà trẻ. Theo hắn, đó chỉ
là nơi nhốt trẻ. Nó ốm đau, biết đâu hậu hoạ lớn khó lường. Thế là
cái gánh nặng nuôi con tiếp tục đè lên vai hắn. Khi còn ẵm ngửa, hắn
mong con biết ngồi. Ngồi được, mong nó biết bò, biết chạy. Con đái
ỉa ra quần, hắn mong nó biết nói, biết gọi... Mỗi thứ mong, đến được
với hắn cũng phải nửa năm trời, cả năm trời.
Ngoài trông con và gánh mọi
việc nhà, hắn còn tính chuyện nhặt nhạnh để kiếm thêm đồng ra đồng
vào. Suất lương thợ của vợ hắn
chỉ đủ mua gạo và rau hàng tháng. Khoản tiền thương tật thì dùng để
thuốc thang cho hắn. Nhưng không thể quanh năm ăn cơm với rau. Rồi còn khoản
mặc và hàng chục thứ chi tiêu khác. Nay thêm nuôi con nữa. Nên
hắn đã bày cái tủ bán hàng thập cẩm ra trước cửa nhà. Phong thuốc
lào, bao diêm, gói tăm, quyển
vở, cái bút... nghĩa là, hắn chỉ bán
toàn đồ rẻ tiền. Những mặt hàng có giá, lấy vốn đâu để mua. Đồ rẻ đặt
đấy chẳng phải coi, ai gọi thì bán. Tưởng không mấy bận bịu, hoá có
lúc cũng tối mắt tối mũi. Đang lừa con ngủ, có khách
mua phải chạy ra. Đang xi nó ỉa, phải chạy ra... Bán
một bao diêm lãi mười đồng. Một gói tăm lãi cũng thế thôi. Hàng chục
khách mua, có khi tiền lãi chỉ đủ để
ra
chợ nhặt mớ rau muống. Nếu tránh vất vả thì ai cho không
mình. Nên mỗi ngày hắn chỉ mong
làm ra được mấy mớ rau muống từ cái tủ hàng này. Cảnh nghèo, cứ
lấy rau muống để mà làm thước đo. Vàng bạc cây
que là của người giàu. Mong sao quanh năm suốt tháng, ngày nào nhà
hắn cũng có thêm mấy mớ rau muống. Thế cũng bớt lo.
Có người bảo hắn, bán
làm đếch gì những thứ đó cho tội thân. Đâu phải hắn không hiểu. Chỉ
tại cái túi tiền nhà hắn quanh năm rỗng không. Vì nghèo, nên hắn càng
thấy giá trị lớn lao của đồng tiền. Nó có sức mạnh hơn ta tưởng
nhiều. Nó mua bán, đổi chác được đủ thứ. Cả danh vọng, địa vị,
bằng cấp. Nó làm đảo lộn công lý, phải trái, trắng đen. Vậy mà đã
một thời, hắn và không ít người cùng thế hệ, dám tin
vào thứ lý luận xem thường đồng tiền. Lại cũng chia đồng tiền ra
loại sạch - bẩn khác nhau. Khỉ thật! Hắn suýt bật ra tiếng cười bởi
sự ngu ngốc ấy. Thì ra, thời nào đồng tiền vẫn
giữ nguyên giá trị của nó. Và không có đồng tiền bẩn thỉu. Chỉ có
con người bẩn thỉu thôi.
Nếu đủ tiền, dù chỉ
ở mức đỡ xo xúi, hắn dám dẹp ngay cái tủ hàng. Có tiền, hắn mượn
luôn người trông con và dọn dẹp cửa nhà. Để hắn
nghỉ ngơi, dưỡng sức. Rồi túc tắc viết. Hắn đâm tiếc khoảng thời
gian sống độc thân. Khi ấy chẳng vướng víu bận bịu gì. Khi ấy, giá
hắn cứ liều vượt lên. Cứ lao vào viết. Hẳn đã có một cái gì rồi.
Hoặc giả, vì viết làm hắn chết thẳng, thế chẳng để phiền để khổ
cho ai. Cũng chỉ tại hắn quá tin vào sự phán
truyền của giới y học: Phải thận trọng để tránh đột tử! Thế rồi, khi đã có vợ con, càng không
thể muốn gì làm thế. Nghĩ gì, làm gì cũng phải tính đến vợ con,
lợi thiệt. Không thể vì cá nhân mình mà liều
mạng được. Hắn đành cứ phải gác cái thú
viết lách văn chương ấy lại. Để chờ!
Hắn lặng lẽ âm thầm
chờ. Ngày qua ngày. Năm qua năm. Nhưng cái đích
hắn chờ vẫn cứ xa tận đẩu đâu. Rồi hắn nhận ra rằng,
cái đích mỗi ngày càng xa lắc. Thì mỗi năm thêm tuổi, mà tuổi trẻ
qua rồi, lại đeo đủ bệnh, làm sao hắn dám chắc đến ngày khoẻ lên.
Con hắn thì ngày mỗi lớn, không chỉ nuôi ăn, còn nuôi nó học,
tốn kém tăng mấy lần. Cái túi tiền nhà hắn lại chỉ
có thế, không thể hơn lên. Cảnh nhà hắn như trong hầm thiếu ánh sáng
vậy. Sự túng bấn xo xúi khiến hắn suy sụp
dễ như bỡn chứ lại. Hắn rùng mình bởi thời gian
chờ đợi. Hắn đã chờ, đã đợi, kể từ khi có vợ đến nay đã gần
tám năm. Còn khoảng thời gian độc thân cũng hơn năm. Tổng cộng xấp xỉ chục
năm hắn chờ... Chờ... Đợi… Thật viển
vông hết mức!
Thế là máu văn chương
trong người hắn bùng lên. Chiến tranh đã cướp đi của hắn quá nhiều.
Nó còn chưa buông tha hắn. Nó đồng loã với cái nghèo tiếp tục gậm
nhấm hắn. Cái nghèo không bộc lộ trần trụi, không gầm gừ gào thét
như chiến tranh. Nó giống căn bệnh kinh niên khó chữa, cứ âm thầm hủy
hoại dần dần cơ thể hắn. Hắn từng cam chịu. Nay
không thể được! Hắn sẽ hoàn toàn vô nghĩa ở trời đất này, nếu hắn
còn tiếp tục cam chịu.
Bạn bè từng tiếc thay
tài năng hắn. Thông cảm, có. Trách móc, có. Có người thẳng băng phê
phán hắn nhụt ý chí, không dám vượt lên bệnh tật. Người bảo hắn sợ
vợ, bị vợ chỉ huy. Còn nói hắn đã bếp - núc - hoá để trở thành
đàn bà. Hắn ngồi chết lặng. Nhưng lửa đang cháy đùng đùng trong lục
phủ ngũ tạng hắn. Bọn chúng nói có điều đúng
điều sai, song suy cho cùng, lỗi đều từ hắn. Từ nay, chỉ cần hắn
không chịu đầu hàng. Từ nay, công việc nhà, vợ con hắn phải tự cáng
đáng lấy. Con gái hắn không còn trong cảnh bú ẵm nữa. Nó đang học
lớp một đấy. Hắn phải dành thời gian để cầm bút lên. Thời gian đối
với hắn chẳng còn bao nhiêu. Có thể mười năm, hai mươi năm nữa. Cũng
có khi chỉ còn vài năm. Hoặc một cơn đau đủ kết thúc đời hắn.
Thoáng hắn thấy đầu váng, mắt hoa. Cả những con số không loa loá múa
lượn từ trong mắt hắn.
Vợ hắn vui vẻ gánh bớt việc nhà cho
chồng, nhưng thấy hắn cầm bút viết là lại phàn nàn. Một lần hắn quát:
-
Mặc xác tôi!
-
Em lo là lo sức khoẻ của anh
thôi!
Chẳng
biết đây là lần thứ mấy hắn bực vợ. Lại vì cơn bực tức
bạn bè ở quán rượu chưa nguội, nên lúc này hắn được dịp trút ra. Hắn hét rõ to:
- Thế tôi sống để làm gì
nào? Để - làm - gì - nào?!
Rồi hai người lời qua
tiếng lại, hắn xé luôn mấy tờ bản thảo, xổ tiếp ra
những lời bất bình:
- Sống!... Để làm
gì?... Người sống lâu đâu cần nhiều tuổi! Là đàn ông, người ta chỉ
cốt làm được một điều mình muốn, xong rồi chết ngay cũng hả!... Tại
sao không một ai chịu hiểu cho tôi?
Hắn còn đe, nếu vợ con
cố tình không hiểu, không thông cảm, hắn sẽ bỏ nhà ra đi. Đi đâu không
cần biết.
Thấy vậy, con gái hắn
sợ nem nép. Còn vợ hắn lấy van xin làm thượng sách. Chồng giận thì
vợ bớt lời, chẳng đi đâu mà thiệt. Vợ hắn còn hứa:
- Em không bao giờ cản
trở anh viết nữa. Em nói thật mà. Có điều, anh cố viết ban ngày.
Sức anh không đêm hôm khuya khoắt được đâu.
Hắn im lặng.
Nhưng, ngay tối hôm ấy, hắn lại ngồi vào bàn viết
chỗ góc nhà. Đó là cái bàn gỗ tạp ẽo ợt, cóc gặm, gánh chức năng
hổ lốn: góc học tập của cô con gái, nơi hắn ngồi viết, chỗ để bát
cơm nguội và mấy quả cà muối thâm xì... với cả chức năng tiếp
khách nữa. Vợ hắn thấy đêm đã khuya
mà không dám giục chồng đi ngủ; không dám cả
cựa mình, vì sợ cái giường ọp ẹp nó cọt
kẹt khiến chồng mất tập trung. Hắn đã viết trong không gian
yên tĩnh ấy, với niềm thôi thúc cháy bỏng ruột gan, với một quyết
tâm tới mức quyết liệt. Tiếng ngòi bút chạy sột soạt không ngừng.
Thoáng chốc đã đầy trang. Lại thêm trang nữa. Dường như nỗi niềm chứa
chất trong hắn từ cả chục năm qua, nay được dịp chen lấn tuôn ra cho
toại nguyện. Đêm nay hắn viết câu chuyện
hoàn toàn mới, chứ không viết lại cái truyện
đã xé đi hôm trước. Hắn viết điều đang diễn ra ở cái thành phố này.
Đành rằng văn học không lệ thuộc thời sự, song vấn đề thời sự được
phản ánh hay và kịp thời vẫn hơn. Đêm nay hắn dự
định thức trắng để thảo cho xong
truyện. Cứ đà này chắc xong. Không thể không xong! Và hắn đã toại nguyện
với kế hoạch của mình. Tối hôm sau hắn chỉ việc chép
lại truyện thôi. Hoàn thành trong hai tiếng
đồng hồ. Lúc hắn ghé vào nằm cạnh vợ thì đồng
hồ hàng xóm điểm mười giờ.
Nhưng rồi liền
ba ngày hắn nằm bẹp. Mỗi bữa chỉ húp nổi một
bát cháo. Vậy mà hắn vẫn tỉnh
táo, và rất vui.
Khi cái
truyện của hắn được in ra, đã
làm dư luận rộn lên khắp thành phố. Không phải hắn viết
sai. Càng không phải chuyện đĩ điếm, giết người nhằm câu khách.
Mà
là hắn đã “văn nghệ hóa” nhằm phanh phui một vụ tham nhũng
lớn trong đám cán bộ giữ
chức quyền quan trọng. Người người đều
khen hắn dũng cảm. Vì rằng, nhìn thẳng vào sự thật thì dễ nhưng nói
cho rõ sự thật thì chẳng phải ai cũng dám đâu. Người đời, nhất là
những kẻ có tóc thường hay né
tránh đấu tranh, cốt để yên thân mưu
cầu lợi ích riêng. Còn hắn, hắn luôn nghĩ lợi ích riêng phải nằm trong
lợi ích của đông đảo mọi người. Nên hắn cố góp chút sức tàn còn lại của mình,
để làm rõ phải trái trắng đen trong cái xã hội tràn ngập bất minh này. Hắn nói:
“Nếu là nhà báo, tôi không viết truyện ngắn ấy. Tôi phải điều tra đầy đủ chứng
cứ tư liệu, để cho ra cái bút ký hoặc phóng sự cơ. Một bài bút ký hay phóng sự
về vụ việc này sẽ có sức công phá lớn hơn rất nhiều”. Hắn khẽ thở dài nuối tiếc:
“Là bởi tôi là một thằng dân tàn phế. Bạn bè lại chỉ cung cấp cho tôi số ít tư
liệu, tuy chính xác song không đầy đủ. Tôi đành phải viết truyện ngắn ấy với hy
vọng: Báo động về một vụ tham những đã xảy ra… Viết xong là ốm liền, ông ạ!”.
Thế mà chưa hẳn hết
ốm, hắn đã lại cầm bút lên...
Và đêm nay, ít nhất
hắn phải thảo kỳ được phần mở đầu cái truyện
mới. Mở truyện khó như lời tỏ tình đầu tiên với người mình yêu.
Không xong ý định, có mà phí bữa bún chả vợ hắn trổ tài lúc chiều. Phí
cả mấy vại bia hơi mát lạnh và lâng lâng tuyệt vời. Hắn phải viết
để giành giật với quãng thời gian còn lại của đời người. Để bù
một phần những gì hắn đã bị chiến tranh và đói
nghèo cướp đi. Phải đạp lên mọi cản trở. Để viết. Viết. Viết... Viết
không chỉ từ ý thích. Còn là trách nhiệm. Dù không may, phải sớm
lìa vợ lìa con, hắn không sợ. Có sao, vợ con hẳn cũng xá tội cho
hắn.
- In trong tập Chuyện đời 1, Nxb Thanh Niên, 2004
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét