Truyện ngắn Giang Trung Học
Sáng hôm ấy, chú Kiển lôi
mười hai đứa chúng tôi từ trong giàn lạnh ra, xếp vào hai cái hòm gỗ
gọi là quan tài. Đáy quan tài được rải lớp cỏ khô, để hút ẩm và chống
hôi. Trên lớp cỏ là tấm vải trắng tinh. Sau khi xếp chỗ cho từng đứa,
chú đắp cho chúng tôi một tấm vải khác, cũng màu trắng tinh. Rồi
chú đậy nắp quan tài, dùng đinh chốt chặt lại. Khi cả hai chiếc quan
tài được đưa vào nơi trực chờ bàn giao, chú lặng lẽ đốt ba nén hương
tiễn biệt chúng tôi. Chú nói bằng giọng tiếc thương bùi ngùi:
"Thay mặt bố mẹ các cháu, cùng tất cả các bác các cô các chú
trong bệnh viện phụ sản, chú cầu mong các cháu được an lành may mắn
trên đường về cõi niết bàn vĩnh viễn!"
Cõi niết bàn, tôi nghe
nói thật tuyệt vời. Về nơi ấy là dứt mạch nhân sinh, không còn thọ
thân chịu khổ. Nơi ấy hoàn toàn sạch trong. Con người không hiềm
khích lẫn nhau. Không ai đè nén áp bức ai. Chỉ có bình đẳng, bác ái
ngập tràn cuộc sống chung.
Cõi niết bàn chính là
thiên đường của mọi kiếp người khi đã thoát trần. Tôi hình dung cánh
cửa thiên đường luôn luôn rộng mở đón nhận chúng tôi. Bởi chúng tôi
đều là những hài nhi khốn khổ nơi trần thế. Chín đứa bị phá bỏ khi
còn là bào thai, do những toan tính ích kỷ ghê tởm của cha mẹ. Còn
ba đứa sơ sinh, mỗi đứa một cảnh ngộ riêng. Thằng
Sắn vừa ra đời thì mẹ chết liền. Nó đầy bệnh, buộc phải sống trong lồng
kính, được làm người chưa trọn ba ngày. Tên
nó thể hiện nỗi khát khao của người mẹ, cốt sao có sắn khoai no bụng
là hạnh phúc lắm rồi. Nó rất thương mẹ, thỉnh thoảng lại khóc hu hu. Đứa thứ hai không tên. Mẹ nó
chửa hoang, vác bụng đến bệnh viện trút vội con ra, rồi chuồn thẳng.
Bà ta còn quá trẻ. Vì chơi bời trác táng, lại nghiện hút, nên con
bà chỉ sống nổi vài giờ. Đứa thứ ba chết do phía các thày thuốc gây nên.
Mẹ nó không đẻ được, nhưng các thày thuốc cứ vô tư ngồi chờ “phong bì”
đút lót. Khi nó chết ngạt trong bụng mẹ rồi, mới được người ta gắp
ra.
Đấy, số kiếp nơi trần thế
của mười hai đứa chúng tôi là vậy. Đáng thương lắm, phải không ạ? Nên
tôi chắc mẩm rằng, đường về cõi niết bàn của chúng tôi sẽ được ưu
tiên chiếu cố hơn người. Mặt khác, chú Kiển đã chuẩn bị hồ sơ cho chúng
tôi thật chu đáo. Mỗi đứa đều được chú ghi số thứ tự, họ tên, ngày
sinh, ngày mất, đính theo phần xác và dán cả trên nắp quan tài. Đứa
nào chưa có tên, chú ghi tên mẹ kèm theo. Hồ sơ từng đứa còn được chú
lưu tại sổ sách của bệnh viện để dễ dàng phúc đáp, khi các gia đình
tìm kiếm con em họ. Tuy thế, những đứa con bị bỏ rơi được cha mẹ quay
lại hỏi han vỗ về thì hiếm lắm. Họ quay lại chẳng qua vì sợ đất trời
thần phật trừng phạt, chứ chẳng vì thương vì nhớ chúng tôi. Thấy chú
cẩn thận quá, tôi cất lời thưa: "Chú ơi, chú khỏi mất công lưu
giữ sổ sách chúng cháu làm gì. Một tuần lễ chúng cháu nằm trong
giàn lạnh đợi chờ người thân là quá đủ rồi. Người cha người mẹ nào
còn chút lương tâm, họ đã không nỡ vứt bỏ xác con". Rất tiếc là,
chú không tài nào nghe được tiếng nói của tôi. Nếu nghe được, hẳn chú
sẽ tìm lời an ủi động viên chúng tôi. Có thể còn giúp chúng tôi những
việc khác nữa. Chẳng hạn, chuyển lời chối trăng của chúng tôi đến các
bậc cha mẹ. Chúng tôi, đứa nào chẳng mang nỗi niềm bức xúc, khi mình
bị bỏ rơi. Cớ sao chúng tôi bao giờ cũng là vật bị hy sinh để bảo
vệ lợi ích riêng của cha mẹ. Phải chăng nơi trần thế này, con người và
quỷ ác không mấy khác nhau. Những người tốt phải chăng là quá hiếm?
Với chú Kiển, chúng tôi cho
rằng đó là con người tuyệt vời. Sự tận tâm của chú khiến chúng tôi
cảm phục hết lòng. Mười mấy năm qua, chú chuyên tâm làm việc này, không
chút lơ là. Một chú đón nhận và đưa tiễn gần mười nghìn thân phận xấu số như chúng tôi, mà không chút
tính toán thiệt hơn cho mình. Cũng chẳng hề sợ hãi. Sợ lũ chúng tôi
vì hờn oán cha mẹ, đâm giận cá chém thớt, trút đổ tức giận vào
chú. Sợ máu me tanh hôi. Còn cả những mầm bệnh nguy hiểm, như là HIV
đe dọa. Khối đứa chúng tôi bị HIV từ cha mẹ
truyền sang. Chỉ một chút sơ ý, chú bị lây dễ như chơi. "Chú ơi, chú
là người quá tốt quá hiếm ở nơi cõi trần. Chúng cháu xin kính chào
chú nhé!". Đó là những câu nói cuối cùng của tôi, khi chú tiễn biệt chúng tôi.
Tôi cứ nghĩ, người nhà
Phật đến đón chúng tôi. Lên cõi niết bàn mà! Hoá ra lại là đại
diện của Công ty Môi trường. Anh này còn rất trẻ, bộ mặt lầm lì, da
xạm, môi thâm. Trong suốt thời đoạn tiếp xúc, không hề mở miệng nói
gì. Cứ như anh bị cưỡng bức làm việc vậy. Anh lặng lẽ bê chúng tôi
lên chiếc xe hòm, rồi nổ máy phóng tít mù, không thèm tránh ổ gà
trên đường. Khiến chúng tôi va nhau liên tiếp, đau nhăn mặt. Đến cạnh
cái lò khói mù mịt, anh lại lặng lẽ bê chúng tôi vào nhà lạnh, và
lặng lẽ ra khỏi nhà thật nhanh. Trong nhà này có tới hai chục đứa
lau nhau trứng gà trứng vịt như chúng tôi, đã chờ trực ở đây gần trọn
bốn tuần lễ. "Chờ làm gì?" - tôi hỏi. "Để hoả táng chứ
làm gì!" - chúng đáp. Còn giải thích: "Hoả táng tức là đốt xác bọn mình
trong cái lò khói mù mịt ấy. Các cậu có nhìn thấy cái lò ấy không?".
Tôi lại hỏi: "Sao phải đốt?". Chúng bảo không rõ lắm thủ
tục này. Chỉ nghe ông lão ở phòng bên giải thích là, phải tẩy trần
hoá giải gì đấy. Trước khi đến cửa
Phật, ai cũng phải rửa sạch bụi trần. Một đứa trong lũ chúng tôi lẽ
lưỡi lắc đầu: "Eo ơi... thế thì nóng thấy mồ!". Tôi nói:
"Sao không chôn bọn mình xuống đất. Xưa nay người ta vẫn chôn đấy
thôi.". Chúng nói: "Đốt sợ nóng, thế chôn thoát cực hình à?
Chôn cũng tắc thở bởi thiếu không khí. Có khi hết thở, nếu nước ngập
quá nắp quan tài.". Và chúng dẫn lời ông lão phòng bên bảo: Đốt
xác vừa giữ được vệ sinh môi trường, vừa đỡ mất đất. Đất thuộc các
vùng thành thị bây giờ đắt khét. Người sống không đủ đất ở, thì kẻ
chết phải chịu sự sắp đặt khắc nghiệt là lẽ đương nhiên. Một xác
người chết đem chôn, mất mấy mét vuông đất; trong khi một mét vuông
đất xây lên nhà cao tầng, có thể chứa mấy trăm lọ tro, hoặc hàng nghìn di hài tập thể. Nên thời nay, các lò đốt
xác hiện đại và thủ công, thi nhau mọc ra là sự dễ hiểu.
Bỗng có tiếng cất lên
từ buồng bên: "Các cháu nhắc gì lão đấy?". Và ông lão xuất
hiện. Tôi mau miệng chào ông, rồi hỏi: "Ông ơi, ông ở đây lâu
chưa?". Lão đáp: "Lâu chưa bằng lũ nhỏ đến trước các cháu.
Nhưng lâu so với những người lớn tuổi". Tôi: "Vì sao thế hả
ông?". Lão ngập ngừng: "Là vì ông không có ai đưa tiền lót
tay những người cai quản cái lò thiêu này". Mấy đứa trố mắt
ngạc nhiên, không hiểu điều ông vừa nói. Liền được giải thích:
"Tiền lót tay là thứ tiền đưa thêm, ngoài số phải nộp chính
thức, các cháu ạ. Khoản ấy, người trần gọi là khoản chi tiêu cực.
Bất cứ việc gì, muốn được giải quyết nhanh, đều phải chi khoản ấy. Những ngày vừa rồi, ông biết có một ca
thiêu bỏ qua mọi thủ tục giấy tờ. Họ dùng tiền tươi nộp thẳng cho
người đại diện. Sau đó, thi hài đưa đến chẳng phải xếp hàng với ai.
Thế là, chỉ qua một đêm đã thấy họ bê lọ tro chuồn thẳng".
"Thế bao giờ thì đến lượt ông?". "Trước sau ắt phải đến
lượt. Bao giờ thì không biết được. Còn với các cháu là những trẻ vô
thừa nhận, mỗi tháng họ chỉ giải quyết có một lần".
Tôi vốn tò mò, thích
biết nhiều chuyện. Nên hàng ngày hay bám ông để hỏi han. "Thế sau
khi đốt xác thì ông có lên niết bàn với chúng cháu không?". Ông
nói: "Không đâu. Ông không đủ tiêu chuẩn niết bàn". "Vậy
niết bàn dành cho những ai
ạ?". "Cõi ấy, chỉ dành cho những người theo đạo Phật vô tội
thôi. Để lên được, phải dày công tu luyện lắm. Tuy nhiên, ngày nay tiêu chuẩn đã được
nới rộng thì phải. Nghe nói bất kỳ ai cũng có thể lên cõi niết
bàn, nếu họ muốn. Đương nhiên là phải có tiền lo liệu mọi thủ tục. Rồi đây, khi các cháu đặt chân đến cửa
chùa sẽ biết sự thể rõ rành". "Ông ơi, nếu không lên niết
bàn thì ông ở đâu?". "Ông ở cái nhà để di hài phía trước
chúng ta kia kìa. Nơi ấy ai ai cũng được thuê một cái ô hình chữ
nhật, chỉ rộng hơn quyển sách thôi. Ở tập
thể mà". Sau giây lát, tôi thấy nước mắt ông ứa ra. Ông buồn vì
không được lên niết bàn. Bởi thời trẻ ông phạm tội giết người, phải
ngồi tù bảy năm. Nên ông rất sợ sự trừng phạt của cõi âm nay mai. Ông
bảo, kẻ nhiều tội lỗi sẽ phải leo cầu vồng lửa, hoặc bị chó ngao
xéo giày. Bỗng ông rùng mình bủn nhủn. Tôi vội đỡ, để ông ngồi lại
thế cân bằng.
Liền đó, tôi chứng
kiến một đám tang rõ to. Hơn hai chục ô tô đưa. Với gần hai trăm vòng
hoa. Tôi cứ nghĩ, khi sống ở trần người này giữ chức sắc gì to lắm.
Hoá ra ông ta chỉ là thợ đổ thùng hố xí của Công ty Vệ sinh trước kia.
Sở dĩ có sự tiễn đưa rầm rộ rùm beng, là nhờ anh con làm Tổng giám
đốc một đơn vị kinh doanh có sức chi phối rộng khắp Bắc Trung Nam.
Đám tang là cái cớ để thiên hạ hợp thức việc trả ơn người con thôi.
Tôi nghe những người đưa tang nói thế. Họ lại nói, tiền phúng viếng phải tới bạc
tỷ. Và, Đám tang còn là dịp để các nhóm quan chức lợi dụng việc
phúng viếng, dùng tiền công ra Bắc vào Nam ăn chơi xả láng. Ông lão thì
bảo: "Số tiền mất mát vô lý dịp này, nếu đem xây nhà cho ngưòi
nghèo phải được mấy trăm căn hộ. Nhưng mà...". Thấy ông ngập
ngừng, tôi hỏi: "Nhưng mà sao hở ông?". "Là ông nghĩ, xưa
nay thường chỉ những người nghèo mới thật sự thương yêu đùm bọc nhau
thôi!". "Thế người giàu thì xấu hả ông. Vậy khi chết, người
giàu khó lên niết bàn, ông nhỉ?". Ông lắc đầu: "Ông không dám
nghĩ người giàu xấu bụng. Còn việc lên cõi niết bàn, sự thể thế
nào ông cũng chẳng hiểu bao nhiêu. Ông già nua lẩm cẩm rồi, nói trước quên
sau là sự thường tình. Các cháu tuy bé bỏng, nhưng ở cõi âm này, tầm
hiểu biết không thua kém bất kỳ ai đâu”. “Thật thế hả ông. Sao ông biết?”.
Ông bảo, điều này người trần ai cũng rõ cả. Nên mới có câu, đại ý là: Kẻ
một tuổi khi chết, linh hồn khôn ngoan am hiểu gấp mười lần lúc sống.
Mười lần là cách nói cho vần thôi. Thực ra là, sự khôn ngoan am hiểu
đạt đến tột cùng. Nên nhiều linh hồn trẻ đã hoá thánh. "Rồi đây
- ông nói - còn điều gì chưa biết, các cháu sẽ tự biết hết".
Do ham biết, tôi nghe
lỏm được cuộc đối thoại của mấy người ở tổ lò thiêu như sau:
"Việc chúng mình rút ngắn thời gian thiêu, xem ra không ổn".
"Vì sao?". "Thì đấy, nhiều loại xương chưa cháy
hết!". "Không cháy, cứ việc bỏ. Người nhà họ biết đếch đâu.
Họ chỉ biết nhận lọ tro, nhiều ít thiếu đủ, ô-kê tuốt!". "Nhưng làm như thế, phải tội thì
sao?". "Tội lội xuống sông! Tớ gánh việc này năm sáu năm nay,
kể tội thì khối. Song chẳng có linh hồn nào quật đổ tớ. Vẫn to
khoẻ như voi. Cậu bảo, làm việc gì cũng nghiêm chỉnh, có mà ăn cám. Phải
láo nháo mới tiết kiệm được nhiên liệu. Mới có khoản dư để mà chia thưởng
cho nhau chứ. Tớ chỉ sợ ít tiền thì đói dài. Chính cái đói dài
mới đáng sợ. Nó quật đổ chúng mình bất cứ lúc nào".
Nghe chuyện ấy, ông lão
bảo: "Người âm không làm gì được người trần đâu. Nếu làm được
thì cõi trần không cần mở những cuộc chống tham nhũng. Và cũng không
cần nhà tù, toà án làm gì. Người âm trị được người trần thì những
kẻ trộm cắp đục khoét tiền bạc của dân, những kẻ điêu toa giả dối
giết người, đã bị quét sạch từ lâu. Chẳng qua người trần đề cao sức
mạnh người âm là để lấy đó răn dạy nhau thôi. Cháu cứ ngẫm mà
xem!". Tôi thấy ông nói
đúng. Bằng chứng là cách làm ăn gian dối ở tổ lò thiêu vẫn cứ trôi
chảy lâu nay. Ngay trong lũ mười hai đứa chúng tôi, nếu báo oán được,
nhiều đứa đã không tha tội cha mẹ nó. Chúng đành cố quên đi, để tìm
sự thanh thản, chờ ngày về cõi niết bàn - nơi thiên đường vĩnh viễn.
Hôm đến lượt chúng tôi
được đốt xác, trước lúc phóng hoả, nhiều đứa cũng run. Chỉ lo bỏng
rát tận linh hồn. Nhưng khi lửa đỏ rừng rực bao bọc quanh xác chúng
tôi, mới biết linh hồn không hề đau đớn. Song vẫn cứ lo. Lo những người
ở tổ lò thiêu để vương vãi xương cốt chúng tôi. Ông lão bảo, xương cốt
bị vương vãi, e sau này linh hồn đau nhức kinh niên. Biết vậy, nhưng chúng
tôi đành xác định cam chịu tai ương. Coi đó là hoạn nạn cuối cùng ở
chốn trần gian. Nhưng chắc đâu đã là cuối cùng. Bởi chúng tôi còn
phải đi qua cửa chùa. Nghe nói, cai quản nhà chùa đâu chỉ có Phật, còn
cả sư sãi mấy tầng cơ mà.
Cùng đợt đến cửa
chùa, lũ chúng tôi gồm ba mươi mốt đứa. Năm cỗ quan tài chứa xác
chúng tôi, nay được thay bằng năm cái lọ gốm đựng tro, gọi là di hài
tập thể. Mỗi lọ mang một số thứ tự, kèm tờ giấy ghi tên từng đứa -
dựa theo hồ sơ chú Kiển bàn giao. Người đại diện nhận chúng tôi xong,
xếp luôn vào túp lều bán mái áp sát đầu hồi ngôi nhà ngang sau
chùa. Người này không mặc quần áo nâu, tự xưng là ông tự. Ông nói
chúng tôi đợi ở đây, chờ nhà chùa giải quyết sau. Nhà chùa là ai?
Chắc chắn không phải ông.
Quyền giải quyết hẳn thuộc về những vị bề trên - sư thầy, sư ông, sư
cụ gì đấy. Nhưng, bao giờ chúng tôi mới được gặp bề trên? Chúng nó xui
tôi hỏi ông tự để biết ngày giờ cụ thể. Tôi lắc đầu. Nếu có hỏi thì ông cũng
không nghe được tôi nói gì. Bởi ông là người trần.
Suốt buổi chiều ngày
đầu tiên, vì lạ nước lạ cái và sợ vi phạm lề luật nhà chùa, chúng
tôi chỉ biết nằm ngồi vạ vật tại chỗ. Sáng hôm sau, để bớt tù
cẳng, chúng tôi rất muốn lang thang ngắm phong cảnh chùa. Song vẫn e
ngại. Ngay lúc ấy, hai đứa nhãi nhép xuất hiện. Chúng hỏi bọn tôi
từ đâu đến. Tôi nói: "Bệnh viện Phụ sản". Chúng đáp: "Thế thì thân phận
bọn mình giống nhau. Chúng tớ cũng từ Phụ sản tới đây". Bọn
chúng có mặt tại chùa trước
chúng tôi cả tháng trời. Có mấy đứa đến đây lâu hơn nữa. Nhưng chỉ có hai
mươi đứa chấp nhận ăn chực nằm chờ thủ tục để lên
niết bàn. Mười tám đứa khác thì đã rời chùa theo ba hướng. Hướng ít nhất,
gồm hai đứa tình nguyện đầu thai
trở lại làm người nơi cõi trần. Ba đứa khác bỏ trốn. Chúng gia nhập
đám linh hồn không nơi nương tựa, lang thang vi vút đó đây. Thoải mái. Tự
do. Số này tồn tại ngoài vòng cương toả của Thần Phật. Vì thế,
chúng thường gây nên không ít tai ương đối với cõi âm, và cả cõi
trần. Cõi trần gọi chúng là những con ma. Hướng thứ ba gồm mười ba
đứa xin trở về trần làm cỏ cây nơi đại ngàn heo hút. Con người ở cõi
trần vì hám lợi trước mắt, đã huỷ hoại quá nhiều rừng đầu nguồn.
Hậu quả là, thảm hoạ môi trường liên tiếp xảy ra, đe dọa nghiêm trọng sự sống
của họ. Chúng nguyện làm cỏ cây với ý đồ nhằm góp phần ngăn chặn thảm họa, gìn
giữ ngôi nhà chung của muôn loài.
Tôi tranh thủ hỏi:
"Tớ muốn biết vì sao lên niết bàn chậm trễ hơn các hướng
khác?". Cả hai đứa cười cười như có ý chế giễu sự chậm hiểu
trong tôi. Đứa con gái giục bạn: "Anh Sinh nói đi!". Sinh bảo:
"Tớ nghĩ các cậu sẽ chẳng lạ cái lý do vì sao. Lên niết bàn tức
đến nơi sung sướng nhất, bao giờ chẳng đầy khó khăn. Trước hết phải
đạt tiêu chuẩn ba đời nhà mình ở nơi trần thế không mắc tội lỗi lớn,
thì mới được tuyển vào trường Phật học. Rồi phải học đến toát mồ
hôi sôi nước mắt ấy chứ. Phải hiểu sâu lịch sử, giáo lý, pháp hạnh,
nghi lễ, kinh điển... về đạo Phật, mới có thể tu luyện để thành đạt. Nhưng đó mới chỉ
là nấc thang thứ nhất trên con đường dài đầy thử thách. Lên cõi niết
bàn, đừng tưởng dễ xơi đâu!". Tôi không ngại học tập
rèn luyện, nhưng lạ tai về cái tiêu chuẩn đề ra, bỗng thốt lên:
"Ba đời! Thế thì chẳng phải đứa nào cũng biết rõ gốc gác nhà
nó. Mà sao cứ phải lôi mấy đời trước vào làm gì. Sao bảo ai làm
người nấy tự chịu?". "Tớ nghĩ, chúng mình không nên bình
luận đúng sai. Chỉ cần nhận rõ tiêu chuẩn quy định để mà đối chiếu,
xem mình có lọt cửa không. Còn sự đúng sai thì đâu chẳng có, dù nơi
trần thế hoặc là cõi tiên. Tớ hỏi các cậu, dưới trần tuyển người
xuất khẩu, làm công việc quét tuyết với dọn nhà, thì cần gì phải
trình độ học lớp Mười hai. Nhưng vì đói nghèo, ai chẳng muốn lao đi
làm thuê, nên những người giữ quyền hành phải nặn ra tiêu chuẩn ấy
để mà hạn chế nhau. Cũng là để tạo cơ hội cho họ ăn của đút nữa.
Phải chăng tiêu chuẩn lên niết bàn cũng giống vậy thôi? Hiểu như người
trần - kể cả các nhà tu hành cấp cao, đến sư sãi bên dưới - là không
am tường thực tế cõi âm. Xét thấy các vị tu hành chỉ biết tụng niệm
những điều Phật dạy từ hàng nghìn năm trước, coi cõi âm là thiên đường
sạch bong, là chân lý bất di bất dịch. Nhận thức như thế
là sai lầm to!”.
Một đứa trong lũ chúng
tôi hỏi: "Ngoài tiêu chuẩn ba đời trong sạch, còn những thứ
gì?". "Thứ gì nữa, rồi các cậu sẽ được nhà chùa phổ
biến. Không lo mù tịt đâu". Tôi hỏi: "Vì sao còn một số đứa đến
chùa trước Sinh mà vẫn phải chờ đợi ở đây?". "Số ấy đều có vấn
đề cần xác minh. Có đứa không hiểu gì về gốc gác nó. Có đứa thì cố tình giấu giếm tội
lỗi của cha mẹ. Các cậu cần nhớ, ở cõi trần có thể gian dối khai man,
hoặc đi bài đút lót người thi hành công
vụ là êm xuôi; còn cõi âm cõi Phật giấu giếm không ổn đâu, sẽ bị lật tẩy
tức thời… Thế mà không hiểu sao, ngay tại cửa Phật, cụ thể là ở nhà
chùa này này, cũng xảy khối điều không hay lắm". "Sao Phật
không trừng trị?" - câu hỏi của đứa khác. Sinh nói: "Có thể
là... Phật vốn nhân từ, nên dễ châm chước". Tôi nói: "Cậu kể
vài chuyện không hay xem nào". "Thích nghe à? Thì kể! Mình kể chuyện
trai trên gái dưới giữa tiểu nam tên Oa với tiểu nữ tên là Thục để các
cậu nghe. Sự việc xảy ra chưa lâu đâu. Nghe bảo, sư ông bắt được quả
tang, rồi thỉnh lên sư cụ. Sư cụ mở hai hướng thoát cho họ. Một là ăn
năn hối cải để tiếp tục nương tựa cửa Phật. Hai là hoàn tục. Cuối
cùng, tiểu Oa nguyện hối cải lỗi lầm. Được sư cụ thỉnh cầu, Phật
chấp nhận; nhưng phải chuyển đi chùa khác, rất xa. Còn tiểu Thục xin
hoàn tục. Bởi trước khi xảy ra điều tiếng với tiểu Oa, đã mấy lần tiểu Thục bị sư ông gợi dục, tuy không
thành. Nên tiểu Thục sợ khó yên thân ở chốn tu hành… Rồi thì, chuyện
sư phá thai cũng có. Nhưng lâu lắm rồi. Các cậu biết vậy thôi nhé!”.
Tôi coi đó đều là
chuyện dễ xảy ra ở đời. Sư sãi nơi cửa chùa cũng là con người bằng
xương bằng thịt, chứ đâu phải gỗ đá hoặc đất sét. Cho dù họ có ăn
chay, tụng niệm miệt mài đến đâu, cũng không thể diệt dục hoàn toàn.
Muốn hoàn toàn thì phải thiến, như công công quan hoạn trong cung vua. Nghe
tôi bày tỏ quan điểm, lúc đầu chúng nó phản đối lý lẽ tôi đưa ra. Cũng
như chúng không tin ở chốn tu hành có chuyện trai trên gái dưới, càng không
tin câu chuyện sư phá thai. Mà, bằng chứng về chuyện sư phá thai lại sờ
sờ ngay trong lũ chúng tôi. Thằng mang số 23/06/05 (gọi tắt là 23)
chính là con một bà sư. Điều này nó chỉ nói riêng với tôi. Tôi thì
không tiện lấy nó làm dẫn chứng. Liền đánh bài lảng bằng việc nằm
khoèo nghêu ngao mấy câu ca cổ. Những câu ca này tôi thuộc từ lúc nằm
trong bụng mẹ. Do một lần cha
tôi đọc đi đọc lại cho bà nghe, và bình dẫn cái thực cái hay của
bài. Tưởng chúng nó cười đùa ầm ĩ, không thèm để ý; hoá ra đến
cái đoạn anh chàng đi chơi trăng thò tay bóp vú cô gái đội gạo, thì
chúng hò nhau trật tự để nghe tiếp. Tôi
vờ làm cao, nói: "Hết rồi!". Đợi chúng nó nịnh, tôi mới
thủng thẳng xướng mấy câu còn lại: "... Dâng gạo lên chùa cúng
Bụt, Bụt ngoảnh mặt đi, Ông Thích Ca mỉm miệng cười khì". Rồi
tôi hỏi: "Chúng mày hiểu thế
nào về thái độ Bụt và Thích Ca?". Sau
một hồi tranh cãi, xem ra chúng hiểu cũng tựa lời bình dẫn của cha tôi.
Bụt ngoảnh mặt đi bởi giận, bởi làm ngơ, và biết đâu có cả chút ghen ghen.
Còn cái mỉm miệng cười khì của Đức Thích Ca vừa thể hiện sự cảm
thông, vừa thích thú nữa. Quả là cuộc sống nơi
trần tục có sức cuốn hút hấp dẫn lắm lắm. Khiến cho Đức Phật trên
cao cũng không tránh khỏi những phút giây rung động, xao xuyến cõi
lòng.
Thấy bọn chúng có vẻ siêu
siêu về phía tôi trong cách nhìn cách nghĩ, lại muốn tiếp tục được nghe chuyện,
tôi liền nói quan điểm của mình đối với chốn tu hành. Rằng chùa chiền chỉ
là một xã hội thu nhỏ. Nếu xã hội rộng lớn có trộm cướp tham nhũng, có đấu
đá chém giết, có thông dâm bán dâm… thì đều có thể xảy ra bên trong
chùa chiền.
Không ngờ điều tôi nói ra làm nhiều
đứa thở dài. Bởi chúng đã quá sốt ruột trước chuỗi ngày chờ trực, từ ở bệnh
viện đến nơi lò thiêu. Tại cửa chùa này, nguyện vọng của chúng tôi xem ra việc
giải quyết cũng khó chóng vánh hơn. Đã vậy, lại nghe nói người nhà chùa không
ít phức tạp, nên niềm tin của chúng vào cõi niết bàn có phần bị dao động hoang
mang. Khiến thời gian chờ trực đâm dài lê thê, làm chúng nó càng nóng lòng sốt
ruột. Trì như tôi rồi cũng sốt ruột bồn chồn.
Thế là chúng tôi đã chờ đợi năm ngày
tại đây mà vẫn không thấy nhà chùa đoái hoài gì. Tôi mới
hỏi chúng nó: "Các cậu có công nhận
nhà chùa quá bận không?". Chúng nói: Chẳng bận bịu gì! Nói nhà
chùa là tôi ám chỉ hai vị sư bề trên thôi. Gồm sư cụ và sư ông. Hai
vị này giữ quyền giải quyết thủ tục ban đầu cho chúng tôi lên cõi
niết bàn. Gần một tuần qua, tôi thấy ngày nào các vị cũng dành quá
nhiều thời giờ để ngủ. Ngủ đêm ngủ
ngày, chiếm tới hai phần ba thời gian. Rồi lệnh khệnh lạng khạng với
ba bữa ăn. Nom các vị ngồi nhâm nhi thư thả một cách khác thường, khiến những ai
có việc cần thỉnh cầu dễ phát điên. Lại còn
lệ ẩm trà sớm chiều nữa chứ... Vậy lấy đâu thời giờ dành cho công
việc. Mà xem ra công việc cũng chẳng có gì. Những ngày qua, tôi chỉ
thấy hai vị gõ mõ tụng kinh vào buổi tối mười tư và sáng tối ngày rằm.
Còn những ngày khác, việc tụng niệm hình như được phân cho hai tiểu (một
nam, một nữ) đảm nhiệm. Tôi cũng chưa hề thấy các vị nghiên cứu kinh
sử. Việc chân tay càng không đến lượt. Hẳn vì lối sống hưởng lạc và
sự chậm chạp lười nhác đã làm chai sạn đầu óc các vị rồi. Nên sư cụ
tuổi chưa tới bảy mươi mà nom như tám chín mươi, hom hem ốm yếu. Sư ông
mới ngoài năm mươi đã thấy sập sệ. Vậy sao không hưu. Hoặc từ chức.
Còn trụ bám chùa đến chết à? Thật vô
lý quá! Giống như ngoài đời, những người giữ chức sắc cao đều không
tự nguyện rời ghế. À mà... tôi so thế là sai. Nhà
chùa làm gì có luật hưu và luật từ chức. Song, dù cảm thông đến
đâu, trong tôi vẫn thấp thoáng ý nghĩ bất bình về cách sống và làm
việc của các vị. Nó già cỗi và trì trệ không khác nơi cửa quan
ngoài chùa.
Thế mà, hôm qua trả
lời câu hỏi của tôi, cả hai cô tiểu đều nói các sư dưới trần bận
nhiều việc lắm. Vì thế danh sách chúng tôi chưa được thỉnh cầu lên
Phật. Tôi ngỏ ý nhờ hai tiểu hỏi sư cõi trần, nhằm đốc thúc tiến
độ công việc mau lẹ hơn. Được hứa sẽ giúp nhanh. Liền đó tôi nghĩ:
Không biết các tiểu này nói với người trần bằng cách nào? Tôi và hai
tiểu cùng ở cõi âm; người trần không nghe được tôi nói, tất không thể
nghe các cô nói. Có lẽ đó chỉ là lời hứa để chúng tôi vui trong
chốc lát. Mới hay, cõi âm không hẳn khác cõi trần. Lời nói còn xuông
thì việc làm khó lòng tin được.
Tôi thở dài ngán ngẩm.
Danh sách chúng tôi chẳng biết bao giờ mới đến tay Phật? Cho dù một
ngày gần đây có thể lũ chúng tôi được sư cụ và sư ông trình Phật, nhưng còn
phải qua bao khâu trung gian, hẳn không thể mau chóng được. Cứ nhìn sự sắp
xếp thứ hạng thờ cúng trong chùa, thấy rõ tầng tầng lớp lớp trung gian
nơi cửa Phật. Sự phân
cấp phân quyền như thế, làm sao tránh khỏi trì trệ trong công việc
hằng ngày. Sao nơi đây không thực hiện cải cách, bỏ bớt trung gian,
thực hành "một cửa". Có thể cũng là vấn đề nan giải,
chẳng khác cõi trần. Bởi cải cách thì đụng chạm đến cả hệ thống
trị vì. Ai mất ai còn, ắt sinh đấu đá lẫn
nhau. Giữ được ghế ngồi thì còn đặc quyền đặc lợi. Mất ghế là mất
hết. Tôi nghĩ thế, có thể không đúng thực tế nơi cửa Phật, nhưng
đúng với trần gian. Ở trần gian, mấy năm nay nhiều nơi đã thực hành cải
cách, song kết quả không đáng kể. Từ "nhiều cửa" thu còn
"một cửa" vẫn chẳng mấy hay. Nên người dân hài hước nói
rằng: "một cửa" nhưng phát sinh... "nhiều khoá".
Nghĩ đến trần gian, tôi chán
ngắt. Chỉ còn hy vọng sự tốt đẹp nơi cửa Phật thôi. Vậy mà từ hôm
bước đến chùa này, niềm tin trong tôi mỗi ngày nhạt phai thêm. Nhưng
tôi vẫn hy vọng. Hy vọng vào các Đức Phật bề trên sáng láng. Tôi
khát khao được gặp trực tiếp các ngài để bày tỏ nguyện vọng. Mà
sao không thấy? Chẳng những không thấy Đức Phật Thích Ca, cả Phật A Di
Đà và Di Lặc cũng không. Trong các buổi lễ, tôi chỉ thấy tượng ba
ngài ngồi bất động tít trên cao. Các ngài vắng mặt thì tìm đâu ra
các vị Bồ tát để mà nhờ vả. Kể ra thì dễ hiểu thôi. Các Ngài đâu
chỉ trị vì cái chùa cỏn con ở ngoại đô này. Trong tay các ngài còn hàng nghìn hàng triệu chùa lớn chùa
nhỏ trên khắp thế gian cơ mà. Được biết, chùa này xây dựng nửa thế
kỷ rồi, nhưng các Ngài chưa một lần hạ giá tới dây. Liệu bao giờ?
Có lẽ chẳng bao giờ! Thôi thì, các
Ngài không bao giờ hạ giá chùa này cũng được. Cốt sao lòng từ bi
bác ái của các Ngài bao trùm khắp mọi kiếp sinh linh, từ cõi niết
bàn đến nơi trần thế. Cốt sao bộ máy thừa hành đạo pháp của các
Ngài tận tâm tận sức, vận hành trôi chảy,
thông suốt quanh năm. Được thế thì âm dương, muôn dân trăm họ an hưởng
đại phúc đời đời.
Thế nhưng theo quan niệm
người trần, Phật luôn luôn ngự tại mọi nơi thờ cúng. Phật tường tận
tất thảy ý nghĩ và việc làm của mọi kiếp sống, cả nơi trần thế
lẫn cõi âm. Thực ra, điều đó chỉ là sự tưởng tượng của con người.
Sự tưởng tượng có thể khởi nguồn từ một nhóm người đưa ra, nhằm đạt
mục đích trị vì của họ. Rồi cứ thế nó được nhân rộng mãi ra, qua
mọi kiếp sống. Bởi số đông con người vốn ngu dốt, nên u mê cả tin. Sự
thật ở cõi âm cõi Phật đâu phải như vậy.
Giờ đây tôi là kẻ thuộc cõi
âm. Bước đầu tôi nhận ra rằng, Phật khó lòng thấu hiểu ý nguyện
chúng tôi. Vì mấy tuần nay chúng tôi luôn cầu Phật độ trì cứu giúp,
song không đứa nào nhận được tín hiệu hồi đáp. Hiểu nỗi niềm chúng
tôi, một lần vị Tổ sư khai sơn chùa động viên an ủi, khuyên chúng tôi nên
cầu Đức Quan Thế âm Bồ tát. Vì Ngài thường hiện thân vào tất cả
tầng lớp chúng sinh, để cứu chúng sinh thoát mọi tai ương. Nghe vị Tổ
sư khuyên, ngày đêm chúng tôi cầu đến mỏi mồm bỏng họng vẫn chẳng
thấy gì. Như thế, làm sao tôi tránh
khỏi nghi ngờ. Nghi ngờ tính chân thực ở lý thuyết Phật. Nghi ngờ
niềm tin vào các Đức Phật. Nghi ngờ cả cõi niết bàn. Niết bàn có
phải là thiên đường, như
những lời quảng bá? Hay niết bàn cũng
khốn khổ như cuộc sống ở trần gian. Nơi trần gian người ta khuyên làm
việc hết mình, hưởng thụ thì thắt lưng buộc bụng, để dồn tiền của
xây dựng tương lai. Mà sao tương lai cứ mãi mịt mù? Tôi nghe nói, hơn
mười năm qua xã hội Việt có phát triển đấy, nhưng mà mặt trái tởm
lợm cũng diễn ra không dừng, khó lòng ngăn chặn được. Phải chăng vì
thế chúng tôi - những đứa trẻ vô tội ở cõi trần, trở thành nạn nhân
của mọi thói sống ích kỷ tởm lợm ấy?
Bỗng tôi thêm một lần
oán giận cha mẹ mình. Họ hy sinh tôi chỉ vì cái ghế ngồi của ông, và
cả cái túi tiền của bà. Họ không phải vợ chồng. Tình tự với nhau,
ông chỉ cốt thoả mãn dục vọng mà thôi. Bà thì cốt nhiều tiền để nhàn
cư mát mặt. Khi chót mang bầu tôi, bà dấn vượt lên chiếm đoạt ông làm
chồng. Nhưng ông không sao bỏ được người vợ già xấu xí. Trong khi đó,
tôi cứ lớn lên từng ngày trong bụng mẹ. Nếu không cưới được nhau, cái
bụng phềnh phàng của bà sẽ là bản cáo trạng ông. Vợ ông, và cả nhạc phụ - đấng đã nâng đỡ ông từ vô
danh tiểu tốt trở thành nhà lãnh đạo, đứng đầu cái vụ quan trọng
của một cơ quan trung ương nhiều quyền thế - sẽ không tha tội cho ông.
Ông không chịu mất hết! Liền chọn cách duy nhất là hy sinh đứa con,
cho dù tôi đã được bảy tháng tuổi. Và với điều kiện, ông phải sang tên cho bà ngôi nhà gần chục tỷ
đồng, cùng việc chu cấp khoản tiền
vốn giúp bà sống thanh thản ung dung lâu dài. Đau thắt ruột mà ông
đành chấp thuận. Từ đấy, họ coi nhau như kẻ thù. Tôi cũng hết thiện
cảm với họ. Không riêng họ, cả với số đông người ở nơi trần thế, tôi
đều không ưa. Có thể là tôi sai lầm. Nhưng dễ dàng thay đổi làm sao
được. Dù sao, ý nghĩ sai đúng trong tôi cũng là do con người nơi trần
thế tạo ra.
... Cho đến một hôm,
khoảng non tháng gì đó - kể từ khi chúng tôi đến cửa chùa, lần đầu
tiên được người nhà Phật gọi hỏi nguyện vọng từng đứa. Tôi từ chối
thẳng thừng việc đầu thai trở lại làm người. Còn hướng lên cõi niết
bàn, tôi chưa hẳn muốn, nên ngập ngừng trả lời nước đôi. Bởi hôm trước tôi gặp sáu đứa từ
trường Phật học trở về, nói rằng: Chúng phải bỏ trường vì lý do
khổ hạnh cực kỳ. Ngày lại ngày, chỉ quẩn quanh trong bốn bức tường
ẩm mốc. Tụng niệm kinh Phật như cuốc kêu mùa hè. Hoặc ngồi thiền
lặng lẽ từ bi, gần như bất động. Ăn uống thì nhạt nhẽo đạm bạc, làm
sao tránh khỏi suy dinh dưỡng. Như thế trí huệ không thể sáng láng
được. Bỗng tôi trợn tròn mắt bởi câu nói “Chúng tao bỏ trường nhằm tránh
dấn thân theo những tà thuyết dị đoan!”. Câu nói ấy có phải là ý nghĩ cực
đoan? Tuy nhiên, tôi không quá bận tâm trước câu hỏi mình thầm đặt ra. Chỉ biết
rằng, sự nghi ngại về cõi niết bàn luôn đeo bám đầu óc tôi.
Cõi niết bàn? Đừng tưởng
bở. Húc vào không khéo lại xơi cú lừa cũng nên. Có khi nguyện làm
thân phận cỏ cây là đắc sách nhất. Nghe đâu có vị danh nhân dưới trần, sau gần một đời lên
voi xuống chó, cuối cùng đã phải thốt lên: "Kiếp sau xin chớ làm
người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo". Liệu hướng ấy có
phải là tuyệt diệu?...
- http://newvietart.com/index3.6418.html
- In trong tập Chuyện đời 3, Nxb Hội Nhà văn, 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét