Con đường Láng - Hoà Lạc rộng mở, đưa xe tôi bon bon trên nẻo về quê ngoại. Quê ngoại của tôi giờ gần Hà Nội lắm, chưa tới năm mươi phút đồng hồ đi bằng xe máy. Cây đa đầu làng đã sừng sững trước mắt. Toàn thân tôi chợt gai gai, bồn chồn. Ký ức một thuở tưởng như xa lắc, xa lơ chợt cuồn cuộn chảy về, quấn quýt, xoắn bện trong cái đầu chộn rộn, xốn xang của tôi. Quẹo vào con đê làng một đoạn ngắn, xe máy của cậu tôi phanh gấp. Xe tôi cũng khựng lại theo. “Chính chỗ này đây, ngót hai mươi năm trước, mẹ cháu bị kẹt chân vào bánh xe của dì Nhu, khi dì và cậu đưa mẹ về viếng mộ ông bà ngoại. Cậu với dì lo quá. Cậu cứ nâng lấy gót chân của mẹ cháu, hỏi: Chị ơi, chị có đau lắm không? Vậy mà, đã gần hai mươi năm. Giờ, cả mẹ cháu cũng đã không còn!”. Giọng cậu buồn buồn, xa xót.
Đoàn xe của gia đình tôi lại
tiếp tục nối đuôi nhau trên đoạn đê lầm bụi, gồ ghề. Con đê quai yên
tĩnh, trải dài những thảm cỏ xanh với lô nhô những bụi cỏ may xưa,
nay đã chịu lùi bước trước tốc độ đô thị hoá ngổn ngang, dang dở.
Chỉ bụi và bụi. Dọc theo triền đê, cách từng đoạn là những căn nhà
mái bằng hiện đại, nhưng cửa cũng đóng kín mít để che chắn bụi
đường (có thể cả… bụi đời). Chỉ vài trăm mét theo cánh chim bay, từ
con đường cao tốc hiện đại, qua quãng đê làng, là tới đất quê ngoại,
nơi mà gần bốn mươi năm trước, lũ trẻ con chúng tôi đặt bước chân lạ
lẫm đầu tiên của mình về đây tìm nơi tránh đạn bom của máy bay Mỹ. Thật
gần! Vậy mà, kể từ sau Hiệp định Pari được ký kết năm 1972, tôi mới
trở lại nơi này, chốn chở che ôm ấp tuổi thơ tôi một thuở. Mặc cảm
có lỗi với quê ngoại nhói đau trong tim tôi.
Cũng con đê này thuở ấy, mỗi
chiều hè khi mặt trời dần khuất sau rặng tre, mẹ ôm manh chiếu mỏng,
kéo lũ trẻ chúng tôi lên triền đê hóng mát. Gió nam phe phẩy. Từng
đám, từng đám mây trắng bay trên nền trời xanh, tạo nên những con thỏ,
con chó, con chim nhỏ… xinh đẹp trong trí tưởng tượng của lũ trẻ
chúng tôi. Chúng tôi tung tăng vô tư trong không gian thanh bình cùng ánh
mắt dịu dàng của mẹ. Chẳng tiếng máy bay gầm rú. Không bom đạn ì
ầm. Người lớn ngồi trò chuyện. Lũ trẻ chạy đùa vui. Nhiều đứa cố
tình lùa chân vào những đám cỏ may, để hoa cỏ đâm tua tủa vào hai
ống quần. Đuổi nhau đến mệt nhoài, cả bọn lăn ra chiếu, mồm miệng
tranh nhau thở. Chợt có đứa đố, chúng mình thi nhặt hoa cỏ ra khỏi
ống quần, xem ai xong nhanh nhất. Vừa nhặt, cả lũ vừa lắng tai nghe
mẹ kể về sự tích hoa cỏ may. Chuyện rằng, xưa có hai người yêu nhau,
vì trắc trở nên nỗi chia ly. Người con trai thầm lặng ra đi. Người con
gái chờ đợi, chờ đợi hoài mà chẳng thấy người yêu dấu của lòng
mình trở lại. Thất vọng và đau đớn, nàng sinh bệnh rồi chết. Tại
nơi nàng trở thành cát bụi, mọc lên vô vàn những đám cỏ lạ. Đó
chính là cỏ may. Hoa cỏ may dễ vướng vào ống quần tất thảy mọi
người đi qua. Tương truyền, nếu người đi qua là chàng trai nọ, hoa cỏ may
sẽ bám chặt mãi mãi vào ống quần. Giờ đã qua gần bốn chục năm, câu
hỏi thời con trẻ của chúng tôi vẫn chưa có lời giải đáp, rằng đã
có ai không thể gỡ nổi hoa cỏ may?
Con đường làng xưa, vẫn con
đường ấy; nhưng thay thế cho những lớp gạch đỏ lát nghiêng là mảng
dày bê tông uốn lượn. Rất nhiều mái nhà cũng đã bê tông, xoá đi dấu
vết của những mái ngói ta giản dị và những mái rạ đơn sơ xưa. Cả
dấu tích những rặng tre xanh mướt bao quanh làng, sớm tối rì rào,
lắc lư kẽo kẹt, nay cũng chỉ còn trong ký ức của những người quen
hoài cổ. Ngày đó, vào buổi tối mỗi khi có việc qua những rặng tre,
lũ trẻ con chúng tôi thường hay đi dính vào nhau, run run sợ sệt. Có
đứa, vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại nghi hoặc. Tiếng dép guốc lẹt
quẹt của chính mình mà như thấy có ai đó đang đuổi phía sau. Thế
rồi, chẳng đứa nào bảo đứa nào, cả lũ chợt ù té chạy. Về đến
nhà, đứa đứng, đứa ngồi, đứa lăn đùng ra giường, cùng cười rũ rượi.
Thấy vậy, ngoại ngồi bỏm bẻm nhai trầu trên chiếc sập gỗ giữa nhà
chửi yêu: Cha bố chúng mày. Chỉ thần hồn nát thần tính!
Nhà ông chủ, nơi gia đình tôi
ở nhờ những năm sơ tán, đã thay đổi nhiều. Cũng phải thôi, đã ngót
bốn mươi năm rồi cơ mà! Theo quy luật sinh tồn, ông chủ và bà vợ cả
đã quy tiên. Bà vợ hai, thường gọi là bà Hai Sót, may mắn vẫn đang
khoẻ mạnh. Nay bà đã được trên tuổi tám mươi. Cây mít đầu nhà sai lúc
lỉu quả đã bị chặt đi. Cối giã gạo liền kề vẫn còn đó. Lặng trong
chốc lát, tôi như thấy lại hình ảnh bà Hai Sót nghiêng nghiêng đầu,
tay vịn chiếc dây thừng treo ròng xuống từ nóc chái nhà. Mồ hôi bà lã
chã trên gương mặt nhọc nhằn, mắt hơi nhắm, chân đều đều nhấc lên hạ
xuống nhịp nhàng, làm vang lên tiếng bộp bộp của chày nện xuống cối
gạo. Khi chúng tôi bước chân vào đến cổng nhà, bà nhận ngay ra người
quen thuở loạn ly sơ tán. Cuộc sống vất vả, khốn khó nơi thôn quê,
cùng phận làm lẽ thiệt thòi, đã không làm mai một được cái trí nhớ
mộc mạc và tinh anh của bà. Bà gọi ra rành rẽ tên từng người trong
đám anh em chúng tôi: Anh Đẩu phải không? Trời đất! Đâu còn cái thằng Đẩu nhanh nhẹn, đảm đang,
biết lo cho mẹ, biết thương các em, nhưng vẫn nghịch ngợm vô cùng, nay
đã vào tuổi ngót lục tuần, râu ria lởm xởm. Bà nhắc lại cái vụ,
anh cùng con trai bà đi câu cá trộm của hợp tác xã ban đêm. Lớ quớ
thế nào, khi giật cần lên, cá đâu chẳng thấy, anh còn bị lưỡi câu
chùm móc vào mu bàn tay, làm cả nhà lo sốt vó. à, thế Vân đâu? Dạ,
chị Vân giờ đang làm dâu xứ người. Thế ư, con Điều cũng vậy. Nhưng
khác một nỗi, Điều bị lừa bán sang Trung Quốc, nay muốn về thăm mẹ
thăm anh cũng không thể vì không đủ thủ tục pháp lý, cùng cuộc sống
khó khăn nơi đất khách. Đành, mỗi năm gửi vài lá thư mang chữ hiếu về
với mẹ nơi quê. Tệ nạn thời hội nhập đã len lách vào tận ngóc
ngách từng gia đình nông dân thuần phác quê ngoại tôi; gây nỗi đau chia
cắt tựa cái thuở ngăn sông cấm chợ xưa vậy! Cũng chẳng có gì lạ.
Hội nhập phát triển thì phân hoá giàu nghèo càng tăng. Sẽ xuất hiện
không ít kẻ gian manh sống bằng những đồng tiền bất minh, trong một
ngày có thể bay đến nhiều sòng bạc nổi tiếng trên thế giới chỉ để
đốt cả triệu đô và ăn chơi trác táng. Tồn tại song hành là lớp lớp
những người khốn khó, ăn không đủ no, mặc còn thiếu ấm, chày trật
mưu sinh trên bãi rác thải của kẻ giàu có. Trong số đó không thiếu
những cô gái như Điều - con bà Hai Sót, đang lắt lay nơi đất khách, khát
khao chỉ một lần ngoái lại cố hương, mong một lần được đắm mình
trong vòng tay ấm áp của mẹ, mà vô cùng khó! Vậy là, quê ngoại tôi
cũng đã rơi vào vòng xoáy phân hoá giàu nghèo của sự phát triển. Bởi
vậy, trước lúc bước vào đất làng, tôi chẳng dám chắc, mình tìm lại
được những tình cảm nồng ấm chân chất thuở xa xưa. Băn khoăn một
chút, và cũng tự trách mình thật nhiều. Chỉ đến khi tay bắt mặt
mừng, tôi biết mình đã tìm lại được vị ngọt lịm của nước mật tứa
ra khi ăn củ khoai lang vùi nướng trong đụn rạ; tôi như thấy mình đang
ngửa mặt hóng gió lộng triền đê những chiều hè oi ả; tôi như đang
được vẫy vùng dưới làn nước trong veo sông Đáy; tôi như còn thấy cả
hơi lạnh ẩm nồng nồng của những hang núi đá vôi, khi ngoại đem cơm
nắm muối vừng, dẫn lũ trẻ chúng tôi tìm vào để tránh bom Mỹ...
Giờ thì tôi hiểu, mình vẫn
còn một chốn để đi về, vẫn còn một nơi để nương náu; để mà tìm
lại sự thanh thản cho tâm hồn, sự bình yên cho con tim, mỗi khi cuộc
sống chợt xô những cơn sóng to gió cả. Vậy mà, gần bốn chục năm nay…
Bà Hai Sót còn anh con trai
nữa trên Điều, tên là Đê - Nguyễn Thế Đê. Đê nay làm Trưởng thôn, kiêm Bí
thư chi bộ thôn 2, xã Phượng Cách. Tác phong Đê nhanh nhẹn, thoải mái.
Giống mẹ mình, Đê bắt tay và gọi chính xác tên từng người trong gia
đình tôi. Phút gặp mặt giữa hai gia đình thật cảm động. Bao kỷ niệm
xưa ùa về. Kia là bờ ao, nơi giặt giũ, vo gạo, rửa rau, còn là chỗ
bơi lội của lũ chúng tôi; giờ đã bị bức tường xây bịt lại, giữ an
toàn cho lũ trẻ khỏi ngã xuống ao. Đây là nơi đặt chiếc chum, hứng
nước mưa từ hai chiếc mo cau, buộc nối hai thân cây cau xuống miệng
chum. Nước này được dùng để ăn uống. Cây bồ kết gội đầu nơi góc
vườn có vòm lá xum xuê xanh ngắt ngả cành la đà xuống mặt ao đã bị
thay thế bằng các loại sữa gội với vô vàn hương thơm hoá chất khác
nhau, được pha chế từ những dây truyền sản xuất hiện đại. Xưa, chúng
tôi thường trèo lên, hái những quả bồ kết vừa chín tới, bóc ra, ăn
lớp cùi trong trong giữa hạt và vỏ. Không mùi. Không vị. Nhưng lũ trẻ
chúng tôi vẫn lấy làm khoái lắm. Dãy nhà chính còn đó. Gian giữa
vẫn chiếc ban thờ xưa. Bên trái là nơi đặt chiếc giường của bốn mẹ
con tôi. Dấu tích bao năm long đong, lận đận của mẹ hiện về…
Hà Nội, những năm dài chiến
tranh phá hoại ác liệt của bom đạn Mỹ. Hằng tuần, mẹ một mình lọc
cọc với chiếc xe đạp cũ, tiếp tế cho chúng tôi chai nước mắm, lọ
muối vừng, vài ba lon gạo, mấy cân bột mì, dăm chiếc kẹo đường đen...
ngủ lại với chúng tôi một vài đêm. Mẹ dặn dò tỉ mỉ cách ăn, nếp
ở. Rồi mẹ lại tong tả quay về Hà Nội. Nơi đó, mẹ còn có một người
chồng - cha của chúng tôi. Nghĩa vụ của mẹ, còn phải chăm sóc động
viên cha qua những ngày đêm khói lửa, để cha nhanh chóng có được những
trang bản thảo kịch, phục vụ kịp thời các chủ trương kháng chiến ở
giai đoạn này. Mẹ cứ vậy đi và về, trong một giai đoạn dài, giữa hai
đầu gánh nặng. Một bên là chồng. Một bên là những đứa con thơ. Khi lo
cho bên này. Lúc nghĩ về bên kia. Mẹ đã tham gia kháng chiến, theo
cách của mẹ là vậy… Nay, mẹ cũng đã đi xa… Rất xa quê ngoại. Còn
chúng tôi, hiện hầu hết đã ở tuổi được gọi là ông là bà, đang quay
ngược quá khứ, tìm về quê ngoại, tìm về một nửa nguồn gốc đã tạo
ra mình, để mà thương, mà nhớ… Để mà ân hận muộn màng…
Trên đường vào làng, xe tôi đi
qua chiếc cầu có tên “Cầu sông Đáy”. Tôi ngơ ngẩn nhìn lạch nước nhỏ
xíu, đầy rác rưởi dưới cầu, nơi vẫn được gọi là Sông. Hỏi thăm Đê mới biết, đó chính là con sông Đáy nước
trong veo mát lạnh thuở nào, mẹ con tôi hay rủ nhau ra lội nước, rón
rén lần theo vết con chai bò trên mặt cát đáy sông, để thò tay tóm được
cu cậu nơi cuối vệt đường đi. Ôi, con sông Đáy thanh sạch nhẹ nhõm tuổi
thơ tôi, giờ là nơi đang oằn mình dưới lớp lớp những rác rưởi xú uế
tạp nham vô ý thức của con người; không còn đâu trong veo nước chảy;
cũng chẳng thấy trải dài lớp lớp phù sa mầu mỡ, nguồn dưỡng chất
nuôi sống bạt ngàn vạt mía ven sông. Đê bảo: Đang có dự án đầu tư
nạo vét, để tái hiện con sông Đáy trong veo uốn mình như dải lụa đào
trước kia. Nghe đâu, cũng vài chục tỷ đồng. Thật buồn! Sự phát triển
ồ ạt, không theo một quy hoạch đồng bộ, cùng với cung cách đua chen
mạnh ai nấy sống của con người đã xoá sạch dấu vết hài hoà của
đồng ruộng sông bãi đan xen xưa. Đường xá mịt mù bụi. Và, những đống
rác thải chất chưởng ven đê với đủ các loại nilon, đồ hộp sắt tây,
giấy bìa các tông, quần áo cũ rách… Tất cả đang hiện hữu trong một
không gian lổn nhổn mới cũ. Ngắm nhìn quê ngoại, cảm nhận một thời
đoạn đổi thay, nếp sống truyền thống vẫn còn đó, cái mới ào ạt
tràn về, tân cổ giao duyên. Nó giống như các bà già váy đen áo nâu
sồng, miệng nhai trầu bỏm bẻm cùng tồn tại dưới một mái nhà với
những cô gái mới lớn, quần bò trễ rốn áo hở cả hai vai, và những
chàng trai vuốt keo cứng dựng đứng mái tóc ngỗ ngược trước trán,
miệng thổi kẹo cao su bôm bốp… Tôi thầm nuối nhớ cảnh xưa, đau đáu
mong muốn một đổi thay hoàn mĩ… ừ, biết đâu đấy, rồi đây Dự án nạo
vét Sông Đáy sẽ được triển khai. Bằng những trải nghiệm mất mát giai
đoạn qua, do sự phát triển chưa cân đối, do nhận thức còn chưa bắt
kịp với xu thế thời đại; nhất định những người nông dân cần cù
thuần chất lam lũ quê ngoại tôi sẽ biết yêu quý hơn những giá trị
truyền thống, họ sẽ tìm cách khôi phục giữ gìn những giá trị ấy,
làm cho nó hài hoà với cách sống văn minh hiện đại thời nay. Tôi hy
vọng lắm…
Nhà bà Hai Sót có thêm một
căn xây kiên cố, ngự trên vị trí gian bếp cũ. Đây là chỗ ở của vợ
chồng cậu con trai Đê, tức cháu nội bà. Phía sau ngôi nhà này, vẫn
là chuồng lợn, nhưng khác xưa lắm. Một dãy chuồng nền bê tông sạch
sẽ, kéo dài hết mảnh vườn nhỏ, nơi trước kia bà Hai Sót trồng mấy
luống rau su hào, bắp cải và một cây hồng bì cho quả ngọt lừ. Trong
chuồng có dăm con lợn nái to kềnh càng. Đê bảo, mỗi năm cũng được
vài lứa giống. Cũng chỗ này, hồi gia đình tôi sơ tán ở nhờ, chỉ có
một ngăn chuồng lợn nhỏ, nuôi theo kiểu cũ. Chuồng đầy phân lợn, rác
rưởi, tro bếp... ướt xình. Con lợn nuôi trong chuồng ủn ỉn giữa phân
và rác nhóp nhép. Góc chuồng còn gác một thanh gỗ nhỏ, cho đám trẻ
con ngồi lên đó chổng mông “ệ” xuống. Có lúc, con lợn ngổng lên, há
mõm khịt khịt. Chúng tôi dọa nhau, khéo lợn đớp mất chim. Nuôi lợn kiểu này để tận
dụng phân chuồng bón ruộng. Khi đó chẳng ai thấy như vậy là rất mất
vệ sinh. Do nếp sống cũ, do tập quán ăn ở xưa. Cũng còn là đang trong
giai đoạn đất nước liên miên khói lửa chiến tranh, việc bảo vệ môi
trường sống trong lành, nào có điều kiện nghĩ tới? Giờ ngẫm lại,
mới thấy tất cả sao vô tư thế. Vô tư sống, vô tư tìm mọi cách để tồn
tại trong bất kể hoàn cảnh và điều kiện khó khăn nào; tất thảy
nhằm dồn sức cho mục tiêu chung, là chiến thắng giặc ngoại xâm và
thống nhất đất nước. Ngay cả những người Hà Nội là chúng tôi về ở,
cũng thật nhanh chóng hoà nhập với nếp sống thôn quê mộc mạc xưa cũ
ấy.
Tôi nhìn quanh nhà, hỏi Đê: “Điện
thoại đâu?”. Đê cười: “Làm gì có?”. Tôi đùa: “Lương Trưởng thôn kiêm Bí
thư chi bộ không đủ lắp điện thoại à?”. Vẫn cười: “Kiêm cũng chỉ
được một phụ cấp thôi” - “Thế mỗi khi có việc gì thì Trưởng thôn - Bí
thư chi bộ phải chạy bộ quanh làng để báo cán bộ đến làm việc à?” Cũng
vẫn cười: “Thì chỉ có mấy người, đạp nhoáy một vòng xe là xong mà”.
Trời đất, thời buổi này, khi mà mỗi buổi sáng, tôi có thể đánh
thức con gái đang ngủ ở bên kia quả địa cầu bằng một cú nhắn tin qua
Internet miễn phí, thì một Trưởng thôn chỉ cách xa trung tâm Thủ đô
khoảng ba mươi cây số đường chim bay mà vẫn phải đi báo việc bằng
chiếc xe đạp tèng tèng… Thương quá, quê ngoại của tôi ơi!
Thắp nén nhang lên ban thờ ông
bà chủ với lời khấn muộn màng xin thứ lỗi, chúng tôi lên đường về
Hà Nội. Phút chia tay chủ khách cũng thật bịn rịn. Tôi ôm vòng bờ
vai bà Hai Sót. Cảm giác ấm áp lạ. Người đàn bà cao lớn xưa, nay
tấm lưng cũng đã còng xuống, thấp bé. Thoáng trong tôi một ý nghĩ,
nếu giờ bị rơi vào cảnh loạn ly sơ tán như gần bốn mươi năm trước,
dám chắc, bà Hai Sót lại dang rộng vòng tay già nua phúc hậu này,
đón chúng tôi trở về nơi quê ngoại để ẩn náu hiểm hoạ! Tôi rơm rớm
nước mắt, lấy ngón tay lén lau, quay hỏi Đê: “Thế nào, cố bố trí ra
Hà Nội chơi nhé - tôi hẹn Đê - Có nhớ địa chỉ không?”. Đê nhanh nhẩu: “Sao
không? Số nhà 47 Hàm Long, làm sao không nhớ!”. Đây thực sự là một
bất ngờ với anh chị em chúng tôi. Số nhà 47 Hàm Long, nơi gia đình tôi
ở, cái địa chỉ mà bao lớp học trò của Nhà viết kịch Lộng Chương
đã đi về và coi đó như mái ấm của mình, cũng đã kịp in dấu trong
trí nhớ cậu con trai nhỏ xíu chưa đến tuổi lên mười của ông chủ nhà,
nơi chúng tôi sơ tán ở nhờ gần bốn chục năm trước. Điều này càng
làm tăng mặc cảm có lỗi với quê ngoại trong tôi.…
Con đường về nhà chang chang
nắng, cái nắng sát Tết trái mùa sao mà gắt gao. Xe tôi mải miết bon,
dần xa quê ngoại. Nhưng càng xa, trong tôi càng khắc khoải về những
hoài niệm xưa…
(*) Báo Văn nghệ số
14 (7/4/2007)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét