Truyện ngắn Phạm Hồng Thắm
Ngồi ôm hông chồng sau anh xe
ôm lái con “Min - khờ” - thế hệ phương tiện giao thông tồn đọng từ mấy chục
năm trước của người anh cả xã hội chủ nghĩa, tim tôi không ngừng hết
mềm ra rồi đột ngột quặn cứng lại. Mưa
vẫn đổ ngang trời, tầm tã. Lặc lè trên
lưng tận ba nhân mạng, con “Min - khờ” cao tuổi vẫn
cố hùng hổ lao trên đoạn đường tối tăm trải đá dăm dang dở và la liệt ổ trâu ổ bò ngập đầy nước như những
chiếc bẫy. Tiếng máy của “Min - khờ” thô kệch, mệt mỏi trong đêm
khuya khoắt, nghe như
tiếng chiếc xe công nông ngất ngưởng chở đầy hàng vậy. Có lúc, đang
lăn trơn tru “Min - khờ” bỗng khựng lại,
thở Ánh đèn pha của
Min - khờ chẳng đủ soi tỏ mặt đường như định lịm hẳn.
Anh xe ôm
nghiêng người, đưa một tay sờ soạng xuống phía dưới máy, chừng như
điều chỉnh nút xăng. Trong nháy mắt, tay xe loạng choạng, tôi cứ ngỡ
cả ba sẽ ngã chổng kềnh giữa đường, ngửa mặt dưới làn mưa xối. Vậy mà, cánh tay vạm vỡ của người nông dân vùng
đất cằn tỉnh Thanh đã nhanh chóng “dằn mặt” sự giở chứng của “Min -
khờ”, đưa con tim tôi trở lại nhịp đập ổn định. Chưa kịp qua một hơi
thở đều, tay lái “Min - khờ” lại loạng choạng, ngoằn ngoèo, ngoắt
ngoéo, để tránh không trèo lên những
khối gạch to xù ngang ngạnh đầy mặt
đường. Ngực trái của tôi ngay lập tức thắt lại, hơi thở nghẹn ứ.
“Đấy là
những “chiến luỹ”… dân sinh sống hai bên
đường ném ra… khi màn đêm xuống, ngăn
không cho ô tô qua lại”. Vừa cúi mặt
vượt mưa, lách ngoắt ngoéo qua những hố nước to, vượt “chướng ngại
vật”, anh xe ôm vừa giải thích ngắt quãng. Thật lạ! Giai đoạn hội
nhập, theo quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung, đường quốc lộ
được mở đến tận những nẻo hoang vắng xa xôi, với dự tính “đổi đời” cho
cả một vùng đất từng
có thời, “ăn rau má” quanh năm này. Vậy mà, những cư dân ven con đường này lại định lập “chiến luỹ” để làm rào
cản tiến trình “thoát nghèo”, giữ nguyên nếp nghĩ thuở hoang sơ, như
kiểu xây hai cột mốc bên đường, ấn định khoảng không vừa đủ chỉ cho
xe đạp, cùng lắm là xe máy, vào làng.
Phải chăng, nếp nghĩ bản vị, cục bộ thâm căn cố đế đã làm cho họ
sợ sự mở mang, phát triển?! Sợ không
theo kịp những tiến bộ chung?! Hay, họ sợ… “được đổi đời”?! Lạ lùng thay!
Khác hẳn lúc trở ra này, khi
sáng chúng tôi bước chân đến nơi đây là gần chính ngọ, trời nắng
nóng. Cái nóng cái nắng chưa đến nỗi đổ lửa, nhưng cặp kính râm tôi
đeo vẫn không đủ ngăn sáng, làm cho hai con mắt cứ phải nheo nheo lại. Và bụi. Bụi đường đất đỏ. Bụi trắng xoá từ những đám đá răm trải chưa kịp lấp nhựa. Mịt
mù. Mung lung.
Đang yên đang lành, vợ chồng
tôi quyết định làm một chuyến tìm lại mẹ cha, sau mấy chục năm “xa
cách”. Nói như vậy, không có nghĩa là, chúng tôi bị lưu lạc cha mẹ tự thuở ấu thơ, để
đến bây giờ qua nhiều thông báo “Tìm người nhà”, mới được gặp lại.
Cuộc gặp của chúng tôi, nôm na theo sự hiểu thông thường, đó là, đi
“gọi hồn” cha mẹ. Để người âm người dương được đôi hồi đoàn tụ, trò
chuyện, thăm hỏi, dặn dò, nhắc nhở... chuyện
làm ăn, sinh sống, cách đối nhân xử thế sao cho trọn nghĩa, vẹn tình…
Trước nay, việc cúng tế cha
mẹ, được cái hai vợ chồng tôi đều thống nhất cùng một quan niệm giản dị. Mỗi ngày, nên thắp nén hương thơm trên ban thờ
cúng gia đình, để tưởng nhớ công
sinh thành của mẹ, nghĩa dưỡng dục của cha. Còn thì, cả hai chúng
tôi luôn nghĩ, khuất núi là hết. Là chấm dứt một sự sống. Chấm dứt
cuộc mưu sinh. Chấm dứt mọi ân oán. Chấm dứt hết cừu thù. Khuất núi chính là dấu chấm hết cho sự tồn tại của những cuộc đời, mà đa
phần khi sống luôn chỉ là triền miên những chuỗi vui ít buồn nhiều,
no chẳng được mấy còn đói thì dẳng dai…
Chúng tôi luôn cho là vậy!
Thế nên, cũng thật kỳ cục
mà vợ chồng chúng tôi chợt lên cơn hứng, nghe theo bạn bè, tìm đến
một chốn heo hút, cách xa Thủ đô
hơn hai trăm cây số, để “đoàn tụ” cùng mẹ cha sau mấy chục năm phân ly
cách biệt. Trên đường ra bến xe, chúng
tôi chỉ chuyện trò vu vơ. Cố không đả động đến cuộc “gặp mặt” (nếu
có) sắp tới. Trải quãng dài của cuộc hành trình, xảy ra vài ba trục trặc về xe cộ làm những người cùng
đoàn khó chịu đôi chút; song, thời
buổi với đầy đủ các loại phương tiện giao thông, việc khắc phục sự
cố là không khó, nên cuối cùng chúng tôi cũng “đổ bộ” được lên địa
điểm dự tính “mời” mẹ cha “tái dương”.
Trước mắt chúng tôi xuất
hiện ngôi nhà nhỏ, mái bê tông, tuềnh toàng giữa một khu vườn rộng -
nhà của người đàn bà gách vai trò làm cầu nối giữa vong hồn của những người đã khuất, với các thể
loại chúng sinh nơi trần thế. Cây cối trong vườn không xum xuê, nhưng cũng không đến
nỗi tạo cho người ta cái cảm giác xác xơ, cằn cỗi. Vẫn có một vài
cây vừa đủ bóng râm cho mọi người ngồi nghỉ, chờ đến phiên mình được
gặp “vong” của người thân đến từ cõi âm; và, hóng những ngọn gió hiếm hoi trong tiết trời oi
ả, đe doạ cơn bão giông đang lẩn quất quanh đâu đó. Anh xe ôm, sau
khi ghi lại cho chúng tôi số phone
để liên lạc lúc xong việc, bèn nổ máy. Trong chốc lát, con “Min
- khờ” đã khuất dạng mà khói xăng và
tiếng rền rĩ già nua của nó vẫn đọng lại dưới những tán cây.
Tôi tò mò ngắm gian nhà.
Một ban thờ gần chục bát hương, nằm đối diện chính giữa cửa trước, cũng tuềnh toàng y như cái vẻ ngoài của cả ngôi
nhà và toàn bộ cơ ngơi này. Một bộ bàn ghế gỗ giả cổ, chắc chắn,
choán cả không gian giữa cửa và ban thờ. Người đàn bà, gánh vai trò
sứ giả liên lạc giữa cõi âm với dương thế, ngồi để cả hai chân trên
một chiếc ghế đơn, dáng gầy gò, nét mặt đanh khô. Đối diện, trên chiếc ghế dài, là một đôi nam nữ.
Cả hai đều có ánh mắt rất thành tâm,
đang trò chuyện với “người cõi âm”. Tôi ngồi bệt xuống nền hè, nghe lỏm được, đâu như
họ nhờ “cô” gọi đến gần chục “vong”. Từ đời kỵ, cụ, ông, bà, bố,
mẹ và có cả cậu em trai chết trẻ. Mỗi “vong”, phải đặt một lễ. Họ
còn đem theo cả máy ghi âm, lưu cuộc trò
chuyện; có lẽ để đem về cho những người không có điều kiện tham dự,
nghe lại. Thế là, “cô” hết là cụ, rồi,
ông, bà, cha, mẹ… của đôi nam nữ nọ.
Mặt trời ngả hẳn phía tây.
Đã qua gần năm tiếng đồng hồ từ lúc chúng tôi đặt chân đến nơi. Cuộc trò chuyện âm dương giữa đôi nam nữ với “vong” của những người thân, thông qua
“cô”, nghe chừng vẫn quấn bện. Đoàn chúng tôi hết đứng lại ngồi.
Quanh quẩn vào sân, ra vườn. Nhấp nha, nhấp nhổm. Cái nóng trở nên vô
cùng khó chịu. Khắp người tôi, cả trên khuôn mặt, tự nhiên ngứa ran.
Xuất hiện những vết mẩn đỏ, dấm dứt. Mọi người bảo, có lẽ tôi bị
dị ứng bởi đám rơm rạ còn ẩm đang lót để ngồi. Hay tại phấn của
một trong những loại cây có ở trong vườn. Cũng chẳng biết nữa. Chỉ
thấy ngứa và ngứa…
Cuối cùng, cũng đến lượt vợ
chồng tôi được “đoàn tụ” với mẹ cha... Trời đã sâm sẩm tối. Liếc qua
nét mặt chồng tôi, ngay lập tức “cô” tuyên ngôn: Bác nặng “căn” lắm… Tôi chẳng hiểu “căn” là cái khỉ gì,
nhưng qua ánh mắt, lời nói của “cô”, tôi mang máng hiểu, sẽ thật khó
để gọi được “vong” của cha mẹ anh. Như
để chứng minh cho lời nói của mình, “cô” gieo quẻ đến lần thứ năm,
mới phán rằng, “ông” đang nhập, làm “cô” đau buốt cả một bên chân tay.
“Cô” cứ suýt xoa, đau nhức lắm, rồi vặn vẹo người. Tay phải nắn bóp tay trái đang cố
vươn thẳng ra phía trước. Chúng tôi im lặng. Chợt “cô” bảo, “ông”
chẳng chịu nói gì. Mà “bà” cũng đang lên đấy. Đúng là bác nặng
“căn” lắm, nên “bà” lên cũng làm “cô” đau nhức khắp người. Chồng tôi và “mẹ” bắt đầu hỏi đáp. Nghe “mẹ” nói, lúc thì
anh gật, khi anh lại lắc. Sau một hồi, “mẹ” bảo
anh không nói thật với “mẹ”. Đột ngột, “mẹ”
vẫy tôi sang ngồi cạnh. Ánh mắt “mẹ” nhìn tôi thật quan trọng, có vẻ như
tra khảo, nhưng giọng lại tỏ ra thông cảm và thương dâu. Lần đầu tiên
tôi được đối thoại với “mẹ”. Bởi, khi tôi bắt đầu ở với anh thì mẹ chồng tôi đã mất
từ khoảng hơn hai mươi năm trước. Vậy mà, chẳng hiểu sao “mẹ” lại tỏ
ra thông hiểu đến vậy. “Mẹ” tố
anh một thôi một hồi về chuyện “trăng hoa”. “Mẹ” bảo, không có tôi chăm
sóc, bênh vực, thì anh không tồn tại đến bây giờ. “Mẹ” xoa xuýt cánh
tay tôi, thương xót nói, vì ở với anh vất vả mà tôi gày tong gày teo.
Tôi cãi “mẹ” phăng phăng. Rằng, ở với anh tôi hạnh phúc lắm. Anh chăm tôi
lắm. Lo cho tôi từ cốc nước ngọt khi đi làm về đến nhà, rồi đỡ đần
công việc lúc tôi mệt mỏi. Anh cùng tôi lo bảo ban, dạy dỗ con cái.
Rằng, chúng tôi rất vui vẻ mỗi khi ở bên nhau. Rằng, tôi rất tin tưởng
ở tình cảm của anh dành cho mình. “Mẹ” cau mày, bảo tôi nói dối. “Mẹ” còn bảo, con trai “mẹ”, “mẹ” biết. Không cần phải nói tốt cho nó đâu.
Con giống y như “mẹ” ngày xưa. Lúc nào cũng bao
che, bảo vệ cho “bố”. Tôi hiểu, như
thế có nghĩa là, “bố” tôi xưa cũng có tính trăng hoa. Và, “mẹ” tôi
là người vị tha, bao dung “bố”. Nghe “mẹ” nói vậy, tôi vẫn khăng khăng
bảo vệ ý kiến của mình. “Mẹ” nhăn mặt, tỏ ra không bằng lòng… Rồi, “mẹ” chuyển sang đề
tài khác. Bảo sao không mang trầu
cau cho bà. Sao không mua cho bà loại bánh ướt. Bảo tới nay mua cho bà cái áo ấm, chiếc khăn đội đầu… Tôi hứa
sẽ làm hết theo ý bà.
Ngay
lúc đó, trời bất chợt nổi sấm chớp. Những hạt mưa rào bắt đầu ào
ạt đổ xuống. “Mẹ” tôi thấy thế, bảo “mẹ
về” thôi, còn để cho “bố” lên nói chuyện.
“Bố”
tôi tỏ ra điềm đạm hơn. Chỉ hỏi những đồ vật mà ngày xưa ở nông thôn
hay dùng, có còn không? Rồi “bố” bảo, ở
dưới kia, “bố” đầy đủ lắm. Không phải lo cho “bố” cái gì. À, mà “bố”
cần cái kính. Năm quyển vở để ghi chép cùng cái bút. Tưởng “bố” thích gì, chứ mấy thứ đó, chúng tôi
gửi cho “bố” dễ ợt. Nhà chúng tôi có đầy. Về “mẹ”, “bố” tuyệt nhiên không nói một lời nào.
Rồi, cũng như “mẹ”, “bố” bảo phải về để chúng tôi còn ra ô tô, kẻo
mưa quá.
Cuộc
“tái hồi” cùng “cha mẹ” diễn ra quá nhanh, chỉ trong chưa đầy nửa giờ
đồng hồ. Và, dường như “cha mẹ” không tỏ sự vui mừng khi gặp lại anh, đứa con mà mấy chục năm trước khi còn
sống, cha mẹ cưng anh nhất. (Là tôi nghe họ hàng anh kể thế). Vậy là, chúng tôi đã lọ mọ vượt quãng đường hơn
hai trăm cây số, trong nắng cháy mưa giông, chỉ để nghe được “dăm câu ba
điều” từ “cha mẹ”, hư không ra hư thực không ra thực, vậy thôi ư?
Lúc này mưa càng to hơn.
Tiếng mưa rơi sầm sập. Gió quật quã, làm nghiêng ngả đám cây ngoài
vườn. Cả gian nhà, chỉ nhõn bóng
đèn tròn hai lăm oát vàng vọt chợt phụt tắt. Tất cả bao trùm một
màn đen. Trên ban thờ, gần chục bát hương
với ngần ấy nén hương càng đỏ rực hơn…
Mò mẫm một hồi,
tìm mọi cách để che gió, ba lần đánh diêm, đứa con gái nhỏ của “cô” mới châm được ngọn nến. Ánh sáng leo lét của nó không đủ soi tỏ mặt người.
Chuyện về hay ở lại được đưa ra bàn cãi. Cuối cùng, tất cả đều
quyết tâm ra về. Nhưng quả thật, nếu phương án ngủ lại qua đêm được
đoàn thống nhất, tôi cũng không tưởng tượng sẽ trú chân theo kiểu gì
trong ngôi nhà bé tẹo, mà riêng số chủ nhân của nó đã ngót mươi
người.
* * *
Ngồi lên con “Min - khờ”, đi được một đoạn, mưa đổ nặng hạt hơn. Gió cũng
vậy, ào ạt. Gió tạt mưa rát mặt.
Cả ba đều không áo mưa. Chỉ có tôi choen hoẻn chiếc mũ vải nhỏ đỉnh
đầu. Anh xe ôm, cúi đầu tránh mưa quất vào mắt; gồng người trị con “Min - khờ” luôn tìm cách giở quẻ. Chồng tôi, tay ôm túi đồ,
tay ôm eo anh xe ôm. Tôi, tay ôm hông chồng. Tay cố xoè ra, ấp lên đúng
đỉnh đầu của anh. Cứ vậy, dưới mưa tầm tã, “Min - khờ” vượt quãng đường dài tối tăm la liệt ổ trâu ổ
bò đầy nước, ngổn ngang gạch đá như những chiếc bẫy, hạ cánh an toàn, đưa
chúng tôi vào trú chân nơi quán nhỏ bên
quốc lộ 1. Anh xe ôm đất cằn tỉnh Thanh tận tình bắt xe, hỏi rõ giá
cả, đưa chúng tôi lên chiếc xe chở khách
an toàn để về Hà Nội.
Trời
vẫn mưa. Chiếc ô tô chở chúng tôi lao như xé gió. Tôi ngồi tựa đầu vào
vai chồng. Hơi ấm từ anh toả ra tạo cho tôi cảm giác tin cậy. Từ khi
ở với anh, trải nhiều sóng gió bấp bênh, nhưng bất cứ lúc nào, cảm
giác này trong tôi luôn là vậy. Thế mà “mẹ” lại bảo, anh có tính
“trăng hoa”?!
Nhưng không sao. Một lần nữa,
kho tàng tình yêu của chúng tôi có thêm kỷ niệm không dễ quên. Đời
thế mà vui!
Tất cả
những người trên xe đã chìm vào giấc ngủ. Chỉ còn lái xe và mưa là
thức. Xe vẫn xé gió lao nhanh. Lúc này đã quá nửa đêm.
Báo Lao động
Thủ đô cuối tuần (31/5-6/6/2007)
http://vietvanmoi.fr/index3.7979.html (23/6/2020)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét