GIẢI THƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VHNT
KỊCH TÁC GIA LỘNG CHƯƠNG - MỘT NHÂN CÁCH LỚN,
MỘT CÁ TÍNH SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO
NSND - Họa sĩ - Nhà thơ Lê Huy Quang
Chợt nhớ vào năm 2013, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam tổ chức trọng thể
Kỷ niệm 10 năm ngày mất Kịch tác gia Lộng Chương, tôi đã chép lại và tặng gia
đình ông bài thơ “Nhân vật và cuộc đời”
với lời đề từ “Kính tặng Nhà viết kịch Lộng Chương, tác giả vở Mỵ Châu - Trọng
Thủy, do Đoàn Tuồng Trung ương diễn tại Cổ Loa, nhân Kỷ niệm 20 năm ngày thành
lập (1959 - 1979)”.
NHÂN
VẬT VÀ CUỘC ĐỜI…
Thành
Cổ Loa vang rung bờm ngựa hý
Ngọn
lửa bốc cao cháy ngút trời
Áo
lông ngỗng trong đêm hòa nước mắt
Tìm
đường đi cho Trọng Thủy, Mỵ Châu.
Roi
ngựa vút lên câu hát xé lòng
Tình
yêu hỡi trắng trong và bi kịch
Vọng
mãi ngàn năm nhịp đập trái tim…
Người nghệ sĩ lặng im trên trang giấy
Nhân
vật hiện dần lên trí tưởng tượng vô hình
Thế
thái nhân tình nỗi đau muôn thuở
Niềm
vui nỗi buồn đằm nước mắt nhân gian.
Nâng ly rượu quê cho lòng thanh thỏa
Quên
đi những bất công, những gương mặt đớn hèn
Ta
khảng khái cất lời ca người nghệ sĩ
Và nhân vật cuộc đời cứ thế hiện dần lên…
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, tính từ năm 1979 đến nay, thế mà đã tròn 39 năm trôi qua. Nhưng chúng tôi, lớp nghệ sĩ của Đoàn tuồng Bắc Trung ương ngày ấy, vẫn không thể nào quên được vở diễn “Mỵ Châu - Trọng Thủy” của tác giả Lộng Chương.
Ngày ấy, tác giả Lộng Chương tuổi mới ngoại lục tuần, đạo diễn Ngọc
Phương ngoại ngũ tuần; còn chúng tôi, những nghệ sĩ trẻ chỉ mới ngoài 20, 30.
NSND - Chủ tịch Hội NSSK Việt Nam Lê Tiến Thọ - người đóng vai chính Trọng Thủy
ngày ấy cũng vừa tròn 28 tuổi. Vậy mà, ấn tượng về một vở Tuồng lịch sử hấp
dẫn, sâu sắc, hoành tráng, được bà con Cổ Loa cũng như người Hà Nội nồng nhiệt
đón nhận, đã đem đến niềm vui lớn cho những người làm sân khấu chúng tôi: Tác
giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên. Thế rồi, sau những đêm diễn thành công ấy,
Nhà viết kịch Lộng Chương lại nhâm nhi với các nghệ sĩ Tuồng, chén rượu cuốc
lủi nút lá chuối quê cùng dăm ba hạt lạc
rang và mấy bìa đậu phụ nướng, nhưng với tình cảm ấm áp tràn đầy. Và bài thơ
của tôi ra đời, chính là niềm cảm hứng với Kịch tác gia Lộng Chương. Nhắc lại
đôi dòng về những kỷ niệm ngày ấy là để chúng tôi - những nghệ sĩ đã trên nửa
thế kỷ sinh nghề - tử nghiệp với hai cánh màn sân khấu, không được quên đi quá
khứ, không được quên đi những lớp người trước đã dìu dắt, hướng dẫn, dạy dỗ
mình nên người. Vậy mà buồn thay, trong công cuộc đổi mới này, trong cuộc sống
hiện đại tân tiến hôm nay, đã có không ít các giá trị bị đảo lộn… Có nghệ sĩ đã
ẵm trong tay mình nhiều giải thưởng, nhiều huy chương và danh hiệu vẻ vang, nên
cứ ngỡ mình là “sao, siêu sao” dẫn đến coi thường mọi người, mục hạ vô nhân…
rồi đấu đá tranh giành cái ghế đoàn trưởng, cái ghế giám đốc nọ kia, làm mất đi
cái tình nghệ sĩ từng ngọt bùi, cay đắng thuở hàn vi… Và rồi, họ đã quên đi tất
cả, quên luôn cả những người thày đã tâm huyết dạy dỗ họ nên người. Vì thế, tôi
hết sức đồng cảm với lời tâm sự của NSND Doãn Hoàng Giang về Kịch tác gia Lộng
Chương: “… Mặc dầu ông không mở trường, mở lớp đào tạo, nhưng hầu hết Văn nghệ
sĩ Sân khấu Việt Nam đều coi Nghệ sĩ Lộng Chương là người Thày lớn của mình.
Các tác giả thì coi ông là người Thày lớn về nghề viết. Các nhà đạo diễn thì
coi ông là người Thày về nghề đạo diễn. Anh chị em diễn viên cũng coi ông là
người Thày về nghề diễn. Như thế có nghĩa là, trong con người của Nghệ sĩ Lộng
Chương được coi là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố hợp thành.”
Lộng Chương tên khai sinh là Phạm Văn Hiền, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1918, tại thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Năm 1939 ông tốt nghiệp ngành hóa chất, rồi vào làm
"hóa nghiệm" tại phòng kiểm soát xuất cảng, Sở Tổng Thanh tra Nông
súc, tại Hà Nội.
Cũng thời gian ấy, ông tham gia chơi kịch tại các nhóm kịch tài tử: Ban kịch Hà
Nội, Nhóm kịch Thế Lữ… rồi tiếp theo là Ban kịch Bình Dân thuộc Nha Bình Dân
Học Vụ. Khi Hà Nội bước
vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Lộng Chương cùng Ban
kịch Bình Dân lưu diễn khắp nơi, trên những chặng đường lên chiến khu Việt Bắc.
Thời kỳ tiếp sau, Lộng Chương từng tham gia nhiều công việc khác nhau: Ban Biên
tập Báo Công Dân (Nam Định), tổ chức và phụ trách "Nhóm kịch Công
Dân"; công tác trong Ban biên tập báo Phản Công (Thái Bình); là Chi hội
phó Chi hội Văn hóa Liên khu III, đảm nhiệm Nhóm Văn nghệ Hải Kiến; công tác
tại Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn (Phân hiệu II Trung bộ), làm Đội trưởng Đội
công tác Văn nghệ; tập hợp lực lượng và tổ chức thành lập Đoàn Văn công Liên
khu III. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đoàn Văn công được lệnh đi phục vụ. Sau chiến thắng,
Đoàn được Liên Khu ủy và Hội đồng cung cấp đặt cho tên mới: Đoàn Văn công Điện
Biên. Tháng 7 năm 1957, Lộng Chương tham gia thành lập Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt
Nam, là Ủy viên Thường vụ - Thường trực Hội cho đến năm 1979.
Trong quá trình công tác, dù được phân công đảm nhiệm việc gì thì Lộng
Chương vẫn không quên cầm bút viết kịch. Mười năm tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, theo thống kê chưa đầy đủ, ông đã sáng tác 17 vở
kịch, trong đó có Lí Thới, Du kích thôn
Đồi, Chiến đấu trong lòng địch, Đoàn quân tóc trắng... Giai đoạn sau này, tác
phẩm của ông có tới cả trăm vở, gồm nhiều thể loại: kịch nói, kịch hát, kịch
rối... Nhiều vở kịch của ông từng làm rộn rã một thời kỳ dài trong lịch sử sân
khấu cách mạng Việt Nam. Đó là: Quẫn, A
Nàng, Cửa mở hé, Tình sử Loa thành, Đôi ngọc lưu ly… Lộng Chương đã trở
thành một tên tuổi lớn của nền sân khấu hiện đại Việt Nam, với Giải thưởng Hồ
Chí Minh - dấu son của Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi danh và tôn vinh ông.
… Là một họa sĩ
thiết kế mỹ thuật sân khấu đã được xem nhiều vở diễn nổi tiếng của Lộng Chương,
tôi luôn coi ông là một người Thày, một nhân cách lớn, một cá tính sáng tạo độc
đáo của nền sân khấu hiện đại Việt Nam. Tuy vậy, đây chỉ là ý kiến cá nhân. Còn
những vấn đề quan trọng mang tính chất lý luận, học thuật, nghiên cứu, đánh giá
về Kịch tác gia Lộng Chương, xin được nhường
quyền các nhà nghiên cứu, phê bình nghệ thuật tài ba và uy tín của đất nước…
Trên tinh thần ấy, tôi xin trích dẫn một nhận xét của nhà nghiên cứu,
PGS. TS. Phan Trọng Thưởng về Kịch tác gia Lộng Chương, để khép lại bài viết:
“Từ năm 1960 trở đi, có thể xem là một giai đoạn mới trong quá trình sáng tác
của Lộng Chương, (…) với sự mở đầu của vở Quẫn,
có thể nói đến một phong cách Lộng
Chương, một thể loại hài kịch mà ông là tác gia đứng hàng đầu… (…) Sẽ không
cường điệu khi gọi ông là DANH THỦ HÀI KỊCH!”.
7/1/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét