LỘNG CHƯƠNG
- CON NGƯỜI KỲ DIỆU(*)
PGS.TS. Trần Trí Trắc
Ngày 5 tháng 2 năm 1918, ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, đã ra đời một công dân mang tên Phạm Văn Hiền, có quê gốc tại thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Dịp ấy vào mùa Tết Đinh Tỵ, trời xuân, rét ngọt, gió hun hút… Cái tên Hiền ấy được bố mẹ đặt cho có nguồn gốc từ bản tính sơ sinh: ít khóc, cho ăn thì ăn, cho ngủ thì ngủ, không thích vòi vĩnh…
Phạm Văn Hiền lớn lên thành anh
Phán với công việc điều chế hóa học trong phòng thí nghiệm của Sở Thanh tra
Nông Lâm, thuộc ở Phủ Toàn quyền thời Pháp. Nhưng anh Hiền không thích nghiên cứu ngô khoai lúa hay rừng xanh núi cao, mà thích thế sự với đời, để thành nhà báo - nhà văn - nhà thơ - nhà hoạt động sân khấu của người lập ngôn.
Lộng Chương - là tên gắn với cuộc đời văn chương của Phạm Văn Hiền, phải chăng mang ý nghĩa từ
lời thánh hiền: “Nam giả lộng chương, nữ giả lộng ngọc”? Hay là “tiếng cười lộng cả nghìn chương”? Dù ý nghĩa ra sao
thì Lộng Chương đã đi vào lịch sử
sân khấu Việt Nam và khắc sâu vào trái tim bè bạn…
Phải chăng, khi Phạm Văn Hiền
mới 6-7 tuổi, ngồi dưới hố nhắc vở, xem bác ruột mình diễn kịch của Molie, đã
thành thiên mệnh cho Lộng Chương thành nghệ sĩ, và nghệ thuật sân khấu Việt Nam đã tạo dựng lên một
chân dung Lộng Chương kỳ diệu?
Kỳ diệu thứ nhất - Lộng
Chương không hề được học ở trường nghệ thuật sân khấu nào, không có một văn bằng chuyên nghiệp nào về nghề sân khấu, thế mà ông đã trở thành nhà
văn, nhà thơ, nhà báo, tác giả, đạo diễn, diễn viên, nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm - khảo tả - chỉnh lý - viết lại
chèo cổ, nhà sáng lập nhiều ban kịch cùng nhiều đơn vị nghệ thuật chèo, kịch,
cải lương; rồi làm thầy, làm cố vấn cho nhiều nghệ sĩ trẻ trưởng thành; và là Thường vụ Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam từ ngày đầu thành lập đến năm 1979 (22 năm). Ông là người toàn tài, đa năng và được Đảng, Nhà nước, giới sân khấu kính trọng, thừa nhận, với Huân chương Độc lập hạng Ba (1988) và Giải thưởng Hồ Chí Minh (2000) về Văn học Nghệ thuật cao quý. Phải chăng đây là năng khiếu bẩm sinh với
tình yêu sân khấu nồng nhiệt bẩm sinh, đã đưa Lộng Chương tới đỉnh vinh quang
bất cần bằng cấp nào?
Kỳ diệu thứ hai - Kịch
bản của Lộng Chương chủ yếu được ghi trên những vỏ bao chè:
Hồng Đào, Ba Đình, Thanh Hương, và trên các vỏ bao thuốc lá: Thăng Long, Điện Biên, Hoàn Kiếm,
Tam Đảo, Tam Thanh, Đrao… thế mà có tới 140 tác phẩm dài ngắn, gồm nhiều thể
loại kịch khác nhau. Trong số đó có Quẫn, A Nàng, Cửa mở hé, Quẫy, Đôi ngọc
lưu ly, Tình sử Loa thành… còn đẹp mãi trong lịch sử sân khấu Việt Nam. Nếu
ở Nga có Gogol, chỉ cần một Quan thanh tra đã làm ông bất tử; thì ở Việt
Nam cũng chỉ cần một Quẫn thôi cũng đủ để Lộng Chương sống mãi. Ở đây,
Lộng Chương đã tìm thấy con đường đi của kịch nói Việt Nam bằng cách kế thừa
sân khấu chèo của dân tộc. Phải chăng đây là chân lý cho người nghệ sĩ tài năng không cần điều kiện nào cả mà vẫn có thể tạo ra những tác phẩm bất hủ?
Kỳ diệu thứ ba - Lộng Chương không phải đảng viên cộng sản. Phải chăng vì ông đã khai trong lý lịch là tiểu tư sản? Hay dáng vẻ bề ngoài của ông để ria mép con kiến kiểu tài tử xi nê, tóc phi lô chải ốp, đeo kính mắt to gọng, dung mùi xoa trắng phẳng phiu thấm mồ hôi, hút thuốc lá bằng píp… và hay uống rượu? Khác biệt quần chúng quá! Dù không phải là đảng viên cộng sản, nhưng Lộng Chương đã đi theo Đảng thực lòng. Ông cùng cả nhà ông đều là
cán bộ cách mạng (ba cán bộ cỡ Trưởng ty văn hóa, nhiều con cháu là sĩ quan cao cấp
trong bộ đội và công an). Hơn nữa, những tác phẩm sân khấu của ông dù ngắn hay dài, là chèo hay kịch nói… đều bám sát cuộc sống chính trị và đấu tranh quyết liệt với cái sai, cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu, theo quan điểm đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng. Đặc biệt, trong chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ,
ông đã băng băng “trên từng cây số” bằng xe đạp, qua bom rơi đạn nổ, để đến các đơn vị nghệ thuật của Hà
Bắc, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây, Nam Định, Thái Bình… để đạo
diễn kịch và gây dựng phong trào văn nghệ cho địa phương. Ông được các nghệ sĩ đương
thời mệnh danh là “người chủ trò” vì luôn đi đầu tìm kiếm, đề xuất giải pháp để giải quyết mọi khó
khăn nhằm đưa sự nghiệp sân khấu không ngừng phát triển. Do đó, anh em, bè bạn còn
gọi ông là “người của bốn phương”, “bạn của bốn phương”…
Phải chăng, đây là triết lý:
danh đảng viên không quan trọng bằng nhân cách đảng viên? Lộng Chương đã mang nhân cách
đảng viên, như Gorky được Lênin gọi là “người của Lênin”, “người của Bônsêvich”. Vì thế, Lộng Chương được nhiều đảng viên chân chính và anh chị em hoạt động trong ngành sân khấu kính trọng, học tập, noi theo. PGS.
Hà Văn Cầu - người hoạt động sân khấu cùng thời với Lộng Chương
từng nói: “Đố ai phát hiện một sự lệch lạc nào ở Lộng Chương về tiền nong, đàn bà và ý thức kỷ luật trong suốt cuộc đời ông!”. Câu nói đó
là bằng chứng cụ thể khẳng định nhân cách cao đẹp của Lộng Chương. Lộng Chương
cao về tài năng và tinh thần phục vụ cách mạng, đẹp về nhân cách sống, nên tên
ông đã thành tên của một con đường ở Thành phố Hải Dương…
Kỳ diệu thứ tư - Nghệ sĩ Lộng Chương không giàu, nhưng đã sống thật “cởi lòng cởi dạ”. Ngôi nhà 47 Hàm Long -
nơi ở của cả gia đình ông, đã như nhà tập thể của nghệ sĩ bốn phương. Ai đến dăm ba bữa nửa tháng cứ tự nhiên ăn ngủ, miễn phí. Có khi cả ba gian hai chái và sân trước nhà đều đầy chặt bạn bè. Nếu chỉ tính lượng nước đun sôi để
khách uống thôi cũng đã tốn bao tiền củi
lửa, giữa cái thời đất nước mình phải gồng sức vượt cảnh sống đầy khó khăn
thiếu thốn. Vậy mà ngôi nhà ấy lại từng là văn phòng của Đoàn Chèo Cổ Phong, và
là “giảng đường” của bao thế hệ học sinh các nơi về tụ hội học hành làm nghề
sân khấu trong suốt nhiều năm trời đằng đẵng. Ngôi nhà ấy phải chăng đã may mắn
nằm đúng huyệt của mảnh đất thiêng, nên đã tạo ra anh thanh niên Phạm Văn Hiền
thuở nào, để sau này trở thành một Lộng Chương rất hiền, và là người “nhóm lửa tình yêu sân
khấu” cho thiên hạ?
Kỳ diệu thứ năm - Lộng
Chương hiền nhưng lại trung
thực, thẳng thắn. Ông ghét nói lấy lòng cấp trên, ghét nói sai sự thật; nên đã từng làm
cho ai đó xấu hổ, ngại ngần khi tiếp xúc với ông. Tôi nhớ cái lần Viện Sân khấu
mở cuộc tọa đàm về vở chèo Vòng phấn Capcadơ của Nhà hát Chèo Trung ương, Lộng Chương đã nói thẳng băng rằng: “Có gì phải bàn, đây là cuộc
tình của hai kẻ hấp hối. Vì tự sự Bertol Brech ở Đức đang hấp hối và Chèo của
ta cũng đang hấp hối đấy thôi!”. Mọi người dự tọa
đàm (trong đó có GS-NSND Trần Bảng và GS-TS Thứ trưởng Đình Quang - là những
người chủ trương dùng Chèo để diễn kịch Tây) cùng cười đau xót. Bởi Lộng Chương
nói đúng quá! Và cái sự quá đúng của ông đã làm cho không khí cuộc tọa đàm
chùng hẳn xuống.
Mặc dù Lộng Chương sống thẳng thắn, trung thực, nhưng ông không bao giờ cô đơn. Rất nhiều bạn bè, anh em vẫn quần tụ xung quanh ông. Ngôi nhà 47 Hàm Long của ông vẫn ngày ngày nườm nượp khách vào ra.
Phải chăng đây là bài học của lẽ sống: “Không sợ ai ghét ta vì ta trung
thực, thẳng thắn; mà chỉ sợ sống nhàn nhạt, thiếu chính kiến và bản lĩnh làm người”. Lộng Chương trung thực, thẳng thắn, có chính kiến đúng và có trí tuệ sắc sảo,
uyên bác, giàu hồn người, nên đã thu hút được đám đông thông minh đồng tình với mình. Vì thế “… con người có thể qua đi, tác phẩm có thể mòn mỏi, song Lộng Chương vẫn còn mãi. Cái còn của Lộng Chương thuộc về nhân cách, về đạo đức, về ứng xử, về thái độ đối với lịch sử và xã hội.” - Nhà nghiên cứu Chèo Hà Văn Cầu từng viết
về Lộng Chương như vậy.
… Thời gian đã qua đi, hôm nay,
tại Nhà hát Lớn Hà Nội, các nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tụ hội để kỉ niệm 100 năm
ngày sinh của công dân có tuổi Đinh Tỵ, tên là Phạm Văn Hiền - Lộng Chương -
nghệ sĩ yêu quý của chúng ta. Lộng Chương, với bản tính “không thích vòi vĩnh” - là
nghệ sĩ kỳ diệu đẹp mãi trong lòng bè bạn. Và bè bạn hôm nay tưởng nhớ những kỷ niệm kỳ diệu về ông!
Hà
Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét