Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

NHỮNG MẢNH VỠ CUỘC ĐỜI(*)

Truyện ngắn Giang Trung Học
            Đã trở thành lệ, cứ đúng ngày 27/7 là bà lão lại dọn dẹp bàn thờ thật sạch sẽ, rồi bày hoa trái, thắp đèn nhang tưởng niệm chồng con. Lệ này khởi ra vào cái năm chồng bà được công nhận liệt sĩ, khi hai miền Bắc Nam thống nhất đã gần mười năm.
            Đối với bà, để được nhận tấm bằng Tổ quốc ghi công cho chồng sao mà vất vả quá chừng. Phải bao nhiêu lần viết đơn đề nghị chính quyền. Và ngược xuôi tìm người xác nhận chứng minh quá trình hoạt động cách mạng của ông. Biết rằng ông ấy không còn sống, thì chẳng có thiết thứ gì ở cõi trần này; thế nhưng bà cần làm rõ trắng đen phải trái. Nếu không, oan ức sẽ tiếp tục dội xuống đầu bà cho đến lúc chết. Chết cũng chưa sạch nỗi oan.
            Thà cứ rõ rành như thằng con trai bà, nó là lính ngụy nên mẹ phải đeo tai tiếng. Sao người đời chẳng có phân biệt rạch ròi, để nó chịu oan. Bà cũng chịu oan. Nó bị cưỡng ép đi lính, chứ đâu thuộc đám ác ôn. Mà nào nó đã bắn giết ai đâu. Làm lính trong vòng có nửa năm trời, lần đầu bị lùa ra trận, chết luôn trên đường hành quân.
            Còn với chồng bà, cả một đời đi theo cách mạng cơ mà. Ông là bộ đội cụ Hồ, tập kết ra Bắc. Rồi trở lại quê hương chiến đấu trong những năm gian khổ nhất. Trải bao nhiêu cuộc cọ sát ác liệt giữa hai bên, tiểu đoàn ông không một lần thất bại. Nhưng rồi, qua chiến dịch chống càn quét dài ngày, số quân sống sót của đơn vị ông còn lại quá ít, phải xé ra bổ sung cho mấy nơi. Thành thử sau này, không ai nhớ hết mọi trường hợp hy sinh của đồng đội. Nhưng tất cả đều khẳng định chồng bà hy sinh, chứ không rơi vào trường hợp nào khác. Bởi trước sau, cả tiểu đoàn ông không có người bị địch bắt, cũng không ai hồi chính cả. Trước những nhân chứng bảo lãnh, buộc người ta phải ra quyết dịnh công nhận đồng chí Đỗ Xuân Cầu - chồng bà - là liệt sĩ. Biết rằng cái danh hiệu ấy chẳng cần, nếu bà không mang tiếng là gia đình ngụy quân ngụy quyền. Lại bởi, không làm rõ trường hợp của chồng thì tai tiếng đối với gia đình bà càng nặng nề hơn. Người đời đồn ông hẳn "có vấn đề" mới không được báo tử, không được ban tặng danh hiệu Tổ quốc ghi công. Nên bà phải cất công lặn lội ra Bắc về Nam để tìm chứng cứ minh oan cho ông. Cũng là để lòng bà vơi được nỗi đau.
            Chồng bà mất vào ngày tháng nào không ai hay. Chỉ xác định ông hy sinh vào cái năm đen tối nhất của chiến trưởng B3. "Thôi thì, - lời người đại diện của Sở Thương binh và Xã hội - xin bà cảm thông cho hoàn cảnh oái oăm trong chiến tranh nó là như thế. Nó không chỉ xảy ra với riêng gia đình bà. Mà là rất nhiều. Nhiều lắm. Cho nên chúng tôi quyết định lấy ngày 27/7 là ngày giỗ chung cho những quân nhân hy sinh không rõ thời gian. Ông nhà mình cũng thuộc trường hợp như vậy. Đấy là ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ của cả nước ta. Nó có ý nghĩa thật trọng đại trong lịch sử giành giữ Độc lập Tự do Hạnh phúc cho nhân dân... Bà có ý kiến gì khác không?". Bà không tỏ sự phản đối, cho dù trong lòng chẳng một chút đồng thuận nào. Thấy bà khẽ lắc đầu, người đại diện Sở Thương binh - Xã hội cho rằng như thế là ổn thoả. Anh ta bảo bà yên tâm ra về, nhất định dịp 27/7 sắp tới gia đình sẽ được nhận bằng Tổ quốc ghi công. Sẽ có đại diện của chính quyền rước danh hiệu về tận nhà, trao với nghi thức tôn nghiêm long trọng. Lời hứa khiến bà khấp khởi đợi chờ. Chỉ mong cái ngày ấy tới cho mau.
            Thế rồi, vào lúc tối khuya ngày 26/7, bà đã đi nằm từ lâu mới nghe tiếng kêu cổng. Được cô văn thư Uỷ ban Nhân dân xã - là người cùng xóm - báo rằng, giữa sáng ngày mai có đoàn cán bộ đến phát bằng Tổ quốc ghi công. Bà cẩn thận hỏi: "Có phải chuẩn bị gì hông, cô?". "Hông phải làm gì. Các ổng chỉ trao bằng rồi đốt nhang vái là kết thúc ấy mà!". Vậy sớm mai mình cần sắp đặt lại bàn thờ. Nhang nến đã có sẵn. Hoa trái thì đầy vườn. Bà thầm thì: Ông Cầu ơi! Ông có biết không? Từ ngày mai ông hết mang tai mang tiếng rồi. Cái chết của ông sẽ được công nhận là liệt sĩ. Sẽ được phát bằng Tổ quốc ghi công. Xin ông hãy về nhà để mà nhận vinh dự này. Vinh dự phải đổi bằng cả mạng sống của ông. Tôi thì chỉ mất tý công dò hỏi tin tức ông thôi. Được thế cũng là mãn nguyện đối với tôi. À mà... tôi muốn nói thêm điều này: Từ nay, tôi thôi cúng giỗ ông vào cái ngày nhập ngũ. Ngày giỗ mới của ông, Chính phủ quy định là ngày 27/7 dương lịch. Ông nhớ chưa nào? Đó còn là ngày lễ trọng đại của cả nước dành cho thương binh liệt sĩ đấy. Thế là từ nay ông được hưởng phần mát mặt, ông nhỉ. Chỉ còn thằng con của vợ chồng mình, tôi chưa biết gỡ tai tiếng cho nó thế nào. Mà nó đâu có làm nên tội lỗi. Gây tội  lỗi là những bọn cầm  quyền ở bên trên kia. Chúng đã bắt nó cùng ngàn vạn thanh niên trai tráng, đem ném vào trận mạc mà không chút mảy may thương xót. Nó là đứa con ngoan lắm ông ạ. Học hành chịu khó, giỏi giang. Nếu không bị bắt lính, hẳn nó sẽ nên người hữu ích. Ngày mai, ông nên bảo nó về nhà vui cùng cha mẹ. Tất là tôi cũng sẽ kêu nó về.
            Sớm hôm sau. Lau dọn bàn thờ xong, bà lão đốt đèn nhang, khấn gọi chồng con. Rồi, ba vị cán bộ có mặt đúng thời gian báo trước. Vừa đặt chân vào nhà, ông Trưởng thôn giới thiệu hai bên chủ - khách, và tiếp việc luôn. "Bởi là - lời ông Trưởng thôn - các đồng chí cán bộ cấp trên còn mắc công chuyện nhiều nơi. Nên xin bỏ qua thủ tục mời nước ạ!". Trước bàn thờ, bà Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đứng cùng bên với gia chủ. Phía đối diện là ông Trưởng phòng Thương binh - Xã hội huyện với ông Trưởng thôn. Sau tiếng "è" dọn giọng, ông Trưởng phòng huyện nói: "Kính thưa gia chủ, hôm nay nhân Ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ, chúng tôi được thừa uỷ nhiệm của cấp trên đến trao bằng Tổ quốc ghi công cho liệt sĩ Đỗ Xuân Cầu. Tấm bằng thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với những ai đã hy sinh vì Tổ quốc. Tổ quốc sẽ mãi mãi ghi công và biết ơn... Việc trao bằng cho liệt sĩ Đỗ Xuân Cầu có phần muộn mằn là do hoàn cảnh chiến tranh gây nên. Mong được sự cảm thông chân thực...". Lời vừa dứt, ông Trưởng thôn kịp thời chuyển qua Trưởng phòng huyện tấm bằng ghi công, được lồng cẩn thận trong khung kính. Ông Trưởng phòng huyện liền trao cho phía gia chủ. Bà lão ôm tấm bằng với nỗi niềm xúc động trào dâng, làm rung rung những nếp nhăn nheo trên khuôn mặt gầy. Miệng bà méo xệch đi như muốn khóc, lát sau mới thốt ra được hai tiếng "Cảm ơn". Đến lượt bà Phó Chủ tịch xã đỡ tấm bằng đặt lên bàn thờ. Nhận ba nén nhang đã được đốt sẵn, ông Trưởng phòng huyện mới phát hiện có hai tấm hình cùng ngự trên cao. Ông tỏ ra phân vân ngập ngừng. Ông Trưởng thôn hiểu ý, liền thưa: "Đấy là hai cha con liệt sĩ ạ!". Ông Trưởng phòng huyện hỏi: "Cả anh con cũng là liệt sĩ?". "Dạ. Nhưng là người phía bên kia". "Thế thì...". Bà Phó Chủ tịch xã nhanh tay kéo bà lão ra ngoài nhà để trao đổi riêng. Bà nhắc lại rằng, đây là việc làm của Đảng và Nhà nước ta dành cho liệt sĩ phía bên mình. Nên, để mọi việc diễn ra đúng với ý nghĩa của nó thì phải tạm thời hạ hình anh con trai khỏi bàn thờ. Chỉ có cách ấy là đơn giản, êm xuôi thôi. Bà lão thấy nhói trong tim, nhưng đành gật đầu bằng lòng. Rồi đích thân bà nhờ ông Trưởng thôn hạ hình người con trai trao cho mình. Lúc cất hình con vào buồng, bà không sao nén nổi tiếng khóc, nhưng cố gạt nỗi đau để làm cho xong mọi thủ tục lúc này. Cắm nhang lên bàn thờ rồi, ông Trưởng phòng huyện vái ba vái, và nói lời thành kính biết ơn liệt sĩ Đỗ Xuân Cầu. Ông cũng thay mặt Đảng, chính quyền địa phương cùng toàn dân, hứa sẽ hết lòng giúp đỡ thân nhân liệt sĩ cả về vật chất lẫn tinh thần.
            Tiễn khách rồi, bà lão ôm vội hình con, nằm vật xuống giường. Tiếng khóc lại bật lên. Thút thít. Sụt sùi. Đã từ lâu lắm, nay bà mới bị nỗi buồn xâm chiếm đến mức này. Bà không nghĩ cơ sự lại xảy ra như thế. Xảy ra đúng vào cái lúc bà đang rất vui. Bởi đã làm được một việc to lớn cho chồng, và cho cả mình. Nếu như biết rõ ý đồ của trên phải như thế, bà đã sắp đặt nơi thờ cúng tạm thời khác đi. Khác ngay lúc sớm nay, trước khi khách bước tới nhà. Tất là bà cần nói để cha con ổng hiểu rõ cái lý do vì sao phải vậy. Còn việc xê dịch chỗ thờ cúng như vừa rồi, chẳng khác cuộc tập kích bất ngờ, lại không một lời kêu khấn, thì êm xuôi sao được. Làm thế khác gì chia rẽ cha con ổng. Khác gì xua đuổi con bà ra khỏi nhà. Không! Con ơi, con không phải đi đâu. Nhà này vẫn là của con. Con hãy ra gặp cha đi. Bà giục con, như bảo chính mình dẫn nó tới ông. Thế là bà bật ngay dậy, ôm hình con đặt đúng nơi thờ cũ. Hai tấm hình sao giống nhau đến thế. Đều chụp ở tuổi hai mươi. Tóc cùng húi cua. Mắt to. Miệng lúc nào cũng như cười. May mà ổng còn để lại được kỷ niệm này trước ngày tập kết ra Bắc. Xê dịch cho hai tấm hình ngay ngắn như ý rồi, bà lại thắp nhang vái gọi. Bao nhiêu nỗi niềm vui buồn nối nhau tuôn ra. Thì thầm. Lúc mau lúc thưa. Lẫn cả tiếng nấc tắc nghẹn. Đứng lâu chừng đã mỏi, bà kéo cái ghế tựa để ngồi kể tiếp. Những mong cha con ổng hiểu rõ hơn lòng bà, cùng với sự thể dở hay trên cõi trần này. Kể rồi hỏi. Bà hỏi nơi ông ăn ở có gì khác không. Sao lâu nay ông chẳng báo mộng cho bà. Từ sau cái lần ông nói cuộc sống bơ vơ, không cửa nhà, bà đã làm lễ hoá mã cho ông đủ thứ: Nhà tây ba lầu. Giường nệm. Tủ đứng tủ ngồi. Bàn ghế sa lông. Quần áo, giày dép. Xe gắn máy. Cả vàng. Và đôla nữa... Vàng đấy, tiền đấy, ông ưng mảnh đất nào thì tự mua. Đừng lo thiếu. Thỉnh thoảng tôi lại gửi thêm tiền thêm đồ cho ông. Và cho cả con trai chúng ta.
Tuy đã làm hết trách nhiệm của người sống, vậy mà mỗi lần nghĩ đến ông, bà không sao yên lòng. Bởi bà vẫn ước ao tìm kiếm được phần xác ông, cho dù điều đó không thể xảy ra. Thôi thì... ông ơi, tôi cầu mong ông sống khôn chết thiêng, hãy luôn báo mộng cho tôi. Để tôi hiểu rõ cuộc sống cõi âm của ông. Để đến cái ngày tận số, tôi còn biết đường tìm đến với ông.
Ông ơi, tôi còn muốn hỏi ông nhiều điều lắm. Hai cha con có gặp nhau không? Tôi luôn gặp con đấy. Nhưng nó ít chịu kể chuyện. Chỉ hay cười cười. Mỗi lần thăm mẹ, chỉ chớp nhoáng đảo nhoàng rồi đi luôn. Nhiều lần gặp bữa cũng không chịu ăn. Hỏi cần gì, mẹ cho. Nó bảo thanh niên sức dài vai rộng không thiếu thứ gì. Mẹ đừng coi nó như con nít. Nếu đúng như thế thì tôi mừng. Thế ông đã đến nơi ở mới của con chưa? Từ nhà mình tới chỗ nó xa những mấy trăm cây số. Mãi tận cái xó khuất nẻo thuộc chân dãy Trường Sơn ấy. Tôi chỉ đến đó được một lần. Vào cái dịp người ta di dời nghĩa địa chúng nó đi. Sau tôi không thăm được nữa, là vì tuổi già sức yếu nó ập đến. Phương tiện đi lại thì quá khó khăn. Tôi phải để con đến nằm tại vùng khỉ ho cò gáy ấy, chỉ vì mình không có chốn đưa con về. Mình là dân ngụ cư, muốn có đất làm phần mộ thì phải mua. Tôi biết lấy đâu ra tiền. Vả lại, cũng không ai thực tâm muốn bán chỗ cho con mình. Bởi họ ngại nó là lính ngụy. Thêm khó khăn nữa là, khi ấy ông hay dở đúng sai thế nào không ai hay. Mọi người còn dị nghị về ông ghê lắm. Cho nên con mình bớt khổ làm sao được.
Con ơi! Con có gì không bằng lòng mẹ thì bỏ qua đi. Cả đời mẹ không muốn làm điều trái ý hai cha con đâu. Chỉ hận nỗi mình nghèo. Vì nghèo, mẹ không theo nổi nhiều bậc cha mẹ đồng đội con. Nhìn họ đón hài cốt người thân về quê hương bản quán, về nơi sang trọng, làm mẹ rớt nước mắt ròng ròng. Con ơi! Con có khoẻ không? Nói cho mẹ biết đi. Đừng giấu mẹ điều gì. Ở nơi rừng rú âm u ấy, con càng phải biết gìn giữ tấm thân. Và nhớ thăm nom chăm sóc cha, con nhé. Để cha con bớt buồn phiền. Mẹ cũng bớt buồn phiền. Nay mẹ già yếu thật đấy, song đầu óc vẫn còn tỉnh táo. Chẳng có ngày nào đêm nào mẹ không nghĩ đến hai cha con. Thương lắm!
                                                            *          *          *
Ngày 27/7 năm nay, bà lão làm lễ cúng chồng con thật sớm. Từ lúc đằng đông mới chỉ rạng lên mảng hồng hồng. Ngoài đèn nhang hoa trái, bà còn đặt cả túi quà lên bàn thờ. Quà gồm một ki lô gam đường kính và cái phong bì mười nghìn đồng. Trong lời khấn bà nói rõ rằng, đường và tiền là của Uỷ ban nhân dân xã gửi tặng tối qua, nhân ngày Thương binh Liệt sĩ. Vậy bà trình ông. Để ông biết đấy là sự đền ơn đáp nghĩa của những người đang sống dành cho ông. Mời cha con cùng thụ hưởng. Tôi cũng được hưởng theo. Mà xét cho cùng, chỉ mình tôi thực hưởng túi quà ấy thôi... Không thể đứng lâu hơn trước ban thờ, bà đành lui sang ngồi cạnh bàn nước ở gian bên. Cái túi quà đền ơn đáp nghĩa vẫn vấn vương trong đầu bà. Túi quà không lớn, nhưng nghĩa tình thì đo sao nổi. Túi quà như nói với bà rằng, nỗi oan không còn đổ xuống gia đình nhà ta. Túi quà còn để nhắc thiên hạ rằng, chồng bà là liệt sĩ được cấp bằng Tổ quốc ghi công đấy nhé! Nghĩ thế, tự dưng bà thấy khoẻ khoắn hẳn lên, như vừa được uống một liều thuốc tiên.
Tuy nhiên, cái túi quà cũng gợi lên nỗi rầu lòng trong bà. Mỗi lần nhận nó, bà không thể không nghĩ ngợi về anh con trai. Một thời con bà cũng được phía bên kia kê trong danh sách các liệt sĩ đã quên mình vì nền Cộng hoà. Bởi thế người ta mới rước hài cốt nó về cái nghĩa địa chiến binh bên bìa thành phố. Nghĩa địa trang trọng, sạch đẹp như nơi nghỉ mát vậy. Một bên là phố xá. Một bên là biển. Và cả con đường cái quan chạy séo trước cổng ra vào. Hàng nghìn ngôi mộ nằm giữa những hàng phi lao rì rào gió biển quanh năm, với khách viếng thăm sớm chiều tấp nập. Ngày con trai còn nằm tại đấy, tháng nào bà chẳng xuất hiện một lần. Từ nhà tới chỗ con, bà đi đường tắt rất gần. Lần nào thắp nhang cho nó, bà cũng kêu ông tới. Để hai cha con gặp nhau. Hẳn là ổng phải mừng khi thấy chỗ ở của con đông vui, mát mẻ. Còn ông ăn ở nơi nào, tôi đâu có hay. Đồng đội ông đang sống, cũng không ai biết cụ thể. Chỉ nói ông hy sinh tại một vùng núi rừng trùng điệp thẳm sâu. Vì không thấy xác, nên tới nay họ chẳng thể rước ông về nghĩa địa Tổ quốc ghi công. Vùng nào, tỉnh nào chẳng có nghĩa địa của đồng đội ông. Nghe nói Nghĩa địa liệt sĩ Trường Sơn có hàng chục vạn ngôi mộ, được gìn giữ chu đáo lắm. Số kiếp những ai nằm trong đó hẳn là bền vững đời đời! Ông ơi, ông có tiêu chuẩn ở nơi sang trọng, được người đời ngưỡng mộ ghi ơn, sao không về đấy mà nằm? Sao ông im hơi lặng tiếng cam chịu mãi ở nơi nào, hả ông? Hay ông chuyển về ở với con đi. Ông đừng có băn khoăn cái việc phải đi ở nhờ. Trẻ cậy cha, già cậy con - ấy là cái nhẽ xưa nay. Dương sao âm vậy, ông ạ. Chắc là không ai chê cười ông đâu. Có điều gì vướng mắc với xóm giềng, thì con nó đứng ra dàn xếp bảo lãnh cho ông. đấy đều là đồng đội nó. Chúng nó bảo nhau khó gì. Ông đừng có ngại. Hơn nữa, khi sống ông là người của phía chiến thắng cơ mà. Nên người ta cũng dễ nể ông. Nhưng nể hay không, còn phụ thuộc vào cách ăn ở của mình ấy. Ông khiêm tốn, biết coi trọng người phía họ, thì họ chẳng để bụng làm gì. Hẳn là họ cũng mong hai phía hoà hợp với nhau thôi. Ở trần kêu gọi hoà hợp từ bao năm rồi. Hoà hợp để mà xây dựng cuộc sống chung. Đánh nhau đằng đẵng mấy chục năm, khổ lắm. Làm cho hàng triệu người phải chia ly, âm dương cách biệt. Kinh tế thì nghèo đói. Nghe nói nước mình xếp loại nghèo trong số mấy nước nghèo nhất  thế giới, ông ạ. Thế cho nên cần hoà hợp để đưa đất nước tiến lên!
Vậy mà không hiểu vì sao cái nghĩa địa nơi con bà yên nghỉ lại bị người ta xoá bỏ. Nghe giải thích rằng, để lấy đất xây dựng công viên. Liệu có đúng không? Hay xuất phát bởi sự đố kỵ, hận thù. Nhiều người tỏ ý nghi ngờ chủ trương được công bố. Rằng, thiếu gì địa điểm tốt có thể xây dựng công viên cho thành phố. Chẳng qua người ta không muốn lưu giữ dấu tích thuộc phía chống đối Cách mạng thôi. Nhất là nghĩa địa đó lại được xây dựng nổi trội so với nơi an nghỉ của những người mang danh chiến thắng. Xử như thế, thử hỏi hòa hợp ra sao? Cho dù nghĩa địa đã bị xoá bỏ, con bà không còn nằm tại đấy, song chốn ấy vẫn cứ là nơi bà lão tới lui. Khi thì bà chủ tâm tới. Có lần không chủ tâm, nhưng đôi chân vẫn dẫn bà đến đúng lỗ huyệt chôn con ngày trước. Mỗi lần thăm, bà ngồi cả tiếng đồng hồ. Bà coi đám đất trống không ấy đang còn là nơi con bà yên nghỉ, dù người ta đã hót hài cốt nó đi rất xa. Ở nơi đất mới ấy, người ta vùi lũ chúng nó thật sơ sài. Mỗi đứa chỉ một ô con con, đủ lọt cái tiểu sành. Và, xây mấy hàng gạch nổi để giữ đất không trôi khỏi mồ. Lần tiễn con đến nơi xa xôi ấy, bao nhiêu nước mắt bà đã nhỏ ra. Thế mà từ mấy năm trước, bà vẫn nghĩ mắt mình cạn khô. Giờ đây thì cạn khô thật rồi. Trong lòng bà chỉ còn âm thầm nỗi đau nỗi buồn dành cho chồng con thôi.
Từ cái năm chồng bà được nhận bằng Tổ quốc ghi công, cứ nghĩ ông ấy thế là tạm yên. Với cõi trần, như vậy không còn tai tiếng dị nghị điều gì. Nơi cõi âm, ông cũng đã có chỗ dựa là con. Nghĩa địa, nơi con trai bà yên nghỉ lại gần nhà mẹ. Thật thuận tiện để bà viếng thăm. Thăm con. Thăm chồng. Vậy mà thế sự đổi thay. Nơi nó ở bây giờ là chốn thâm sơn cùng cốc, xa lắc xa lơ. Mồ mả chúng nó đã chẳng ra sao, lại còn chật chội, ngổn ngang trên sườn núi dốc chênh chênh. Chỗ ăn nằm như thế, bảo ông ấy đến nương tựa con, xem chừng cũng khó. Khó chẳng khác việc bà muốn đến với con mà không đủ sức. Sức tận. Tiền không. Thôi đành lâu lâu dò dẫm thăm nơi chốn cũ nó nằm vậy.
Vì chủ tâm đi thăm nơi con vào ngày Thương binh Liệt sĩ, nên bà lão đã thắp nhang ở nhà thật sớm. Khi bà có mặt tại nghĩa địa cũ, cảnh vật như còn ngái ngủ cả. Gió cũng uể oải, không muốn đánh thức những hàng phi lao reo vui. Trên con đường cái quan, lác đác mấy chiếc xe hơi bò chậm chạp. Tuy nhiên bà lão không mấy để ý đến mọi sự xung quanh. Như mọi khi, bà đặt đồ lễ và thắp nhang nến trên cái đám gạch lổng chổng - chỗ con nằm mấy chục năm xưa. Rồi gọi con, gọi chồng chứng giám. Chứng giám cái sự thương nhớ khôn nguôi nơi bà dành cho người thân. Chứng giám cái nỗi đau âm ỉ ruột gan suốt cuộc đời bà. Bà muốn kêu lên nỗi niềm ai oán, mà không sao cất thành lời.
Ông trời ơi, sao ăn ở bất công? Nỗi đau sao trút cả xuống đời bà. Bắt vợ chồng con cái phải chia lìa. Chồng bà, đã không cho sống, sao còn vùi xác nơi nao. Con bà, chết không được yên. Sao phải móc lên vùi xuống mấy bận, hở trời? Sao bắt nó phải đến cái nơi xa tít mịt mù. Để bà không bao giờ còn nhìn thấy phần mộ nó thêm một lần. Như thế khác nào bà mất xác con. Như mất xác chồng.
Chồng và đứa con trai duy nhất là những mảnh kết hợp làm nên cuộc đời bà; nay họ không còn, có nghĩa cuộc đời bà cũng vỡ vụn nát tan!

(*) - Đăng trên http://newvietart.com/index3.6088.html
                     - In trong tập Chuyện đời 3, Nxb Hội Nhà văn 2014














Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét