Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

Sống trên đống rác(*)

Phóng sự

Phố xá dạo này bẩn thỉu quá.  Rác rưởi và ruồi bọ đến khiếp!
Lời than phiền đó - than phiền hay chê trách? - đã làm tôi nảy ra ý định. Ý định bới những đống rác ấy lên cho nó tởm một thể. Nghĩ thế và xắn cao tay áo: Tôi đi tìm những đống rác.
Rác không phải là thứ hiếm, ở nhà ai mà chẳng có từng đống. Việc gì phải tìm đâu. Thật vẽ chuyện. Nhưng cái trò đời nó thế. Bao giờ cũng muốn nghé mắt săm soi sang hàng xóm cơ. Thì đây, hồi chiều hôm qua ông láng giềng tôi trong cơn phẫn nộ với nội tướng, đã thẳng tay liệng cả bộ khay cốc pha lê trên mặt gạch. Sọt rác bên ấy chắc đẹp lắm. Mảnh pha lê óng ánh bên những lá gói bánh giò khô nâu. Tôi đoán chắc thế. Vì vợ chồng giận nhau, chồng đập đồ thì vợ tuyệt thực chứ. Mà cái lệ tuyệt thực thì, lần nào bà láng giềng ấy cũng phải ăn vụng bánh giò.
Lại cái sọt rác của cửa hiệu cao lâu, bên trước cửa kia nữa. Hẳn có nhiều thú vị. Thú vị nhất là những đoàn-quân-cảm-tử-ruồi-nhặng vây kín trên đống đầu thừa đuôi thẹo thực phẩm thải.

Và:
Sọt rác một cửa hiệu tạp hóa với đủ rác rưởi tạp vật.
Sọt rác khô khan của một nhà cầm cán viết.
Sọt rác lẻng sẻng của bác phó thiếc.
Sọt rác êm tay của một hiệu may.
Sọt rác chua loét của các hàng cơm bày chõng.
Sọt rác…
Sọt rác…
Trong trí tưởng tượng tôi thoáng một cuộc đi “duyệt” các sọt rác, trước khi tìm đến cái bãi rác công cộng của thành phố này.
Nhưng vừa bước ra khỏi nhà, tôi vấp ngay phải đống rác được vun gọn bên lề đường. Bác phu lục lộ nào đã có nhã ý giúp tôi? Hẳn phải là một nhà tiên tri. Bác đã hiến tôi cả một đống “tài liệu rác”.
Tôi mỉm cười, nhìn đống rác. Mới mẻ quá. Cạnh đó, bên chân tường rêu đen, một lũ trẻ đang quây quanh đống cùi bưởi, vỏ ốc, gốc mía… Nhà nào đã đổ cái thứ phế thải “trông giăng” ra đấy để làm quà cho lũ trẻ khốn khổ này? Hừ, thì ra đống rác không phải chỉ là nơi hò hẹn riêng của côn trùng, ruồi nhặng nhỉ?
À, ruồi nhặng? Trong buổi tinh sương này chúng biến đâu? Tôi định thần. Và nhận thấy những bầy nhặng nhào lộn, liệng lên, liệng xuống, có khi đứng - à quên, bay - bay tại một chỗ - như đoàn phi cơ tắt máy để rình mò một vị trí quân sự quan trọng vậy.
Rồi một anh xe bê sọt rác đầy chạy sộc từ trong nhà ra, mắt hếch nhìn sang bên lề hè đối diện, như cố tình tống sọt rác vào người tôi. Tôi vội kêu lớn. Anh đứng sững lại trợn mắt nhìn tôi, ý chừng muốn phát bẳn. Tôi sẵn sàng hứng một câu gì thô tục từ cửa miệng anh văng ra, hay bị cả cái sọt rác kia hất vào mặt cũng chưa biết chừng. Nhưng không. Anh xe nhoẻn miệng cười, bê sọt rác chạy biến sang hè đường bên kia. Tôi ngạc nhiên trông theo. Sao anh ta phải sang đấy đổ rác? Và sao vội vã vậy?
Từ phía đường bên, một cái xe rác của sở vệ sinh đang tiến lại, nặng nề và từ từ. Nó còn cách chỗ anh xe khoảng gần hai trăm thước, lo không kịp đổ rác hay sao mà vội? Suýt nữa thì mình bị anh ta gắn “huy chương rác” vào ngực. Ờ, không phải. Tôi đoán nhầm. Anh xe vội vã chạy cốt để kịp lả lơi với một cô nàng, ý hẳn là nhân tình phiệu. Cu cậu hấp tấp moi ở trong sọt rác ra cái gói nhỏ đưa cho tình nhân, và nhảy cỡn lên quanh cô ả để làm duyên, y hệt một trò khỉ.
Chị sen nhăn nhở cười tình, dở phắt cái gói ra. Thấy tôi bước đến rất gần, chàng xe vội ngăn lại. Tôi thoáng nhận ra ở trong gói một cái bánh nướng. Chừng cu cậu đã thó của chủ nhà để làm quà cho nhân ngãi. Hóa ra cái sọt rác ngoài công dụng thiết thực vốn dĩ của nó, lại được dùng vào việc ấy nữa đấy!
… Cái xe rác tiến tới. Thêm mấy chị sen cùng xuất hiện với những sọt rác đầy.
Tôi vui vẻ như một thư sinh nhận văn bằng tốt nghiệp, với hy vọng tìm được điều gì mới lạ xung quanh xe rác và những đống rác. Có lẽ là một đời sống. Đời sống của những kiếp người sống trên đống rác.
Bác phu lục lộ cầm bò hạ càng xe xuống, hét lên:
-          Thong thả, thong thả!
Bác gạt mấy chị sen đang cố dướn người đổ lấy được những sọt rác lên xe, vốn đã đầy có ngọn. Lật cái mũ rộng quai cho rơi lủng lẳng ở ngang lưng, bác phu nhảy tót lên xe, vớ vội cái đinh ba. Tôi tưởng chừng, với điệu bộ hung hăng ấy, bác sắp siên chết lũ dòi bám đặc quanh xe. Không! Bác nhanh nhẹn cào đống rác cho phẳng mặt để tìm kiếm những thứ còn dùng được.
Chứ sao! Những cái bỏ đi của mọi người chưa chắc là đã vứt đi hẳn. Như đôi giầy bác đương đi là từ rác mà ra. Nay nó rách bươm cả vải, đế thì thủng rồi. Sỏ vào chân là nó như thông đồng với sỏi đường tự do xâm lăng gan bàn chân bác. Bác đã chịu khó vá víu mấy lần, nay đành chịu thua. Bác vứt nó vào đống rác với ý nghĩ: thế là hết cái đời mày!
Nhưng bác lại vừa bới được đôi giầy khác để thay thế. Tôi nhận thấy một nét vui trên khuôn mặt bác. Bác dừng tay cào, ngắm nghía lại đôi giầy, gật gù, rồi xỏ luôn vào chân.
Tôi xun xoe tiến lại gần xe rác. Một thứ mùi tanh hôi nồng nặc bầu không khí. Mùi của mục nát, của biến thể, của tiêu diệt, làm tôi lao đao. Tôi lùi lại đứng về phía đầu gió thổi, mắt không rời xe rác. Trong thùng xe đủ loại rác. Nó bị nhào trộn, nom nhầy nhụa đến phát nôn. Vậy mà hai cẳng chân bác phu cứ điềm nhiên đầm sâu trong cái nơi gặp gỡ không hò hẹn của tất cả những đồ thải, cặn bã tứ chiếng ấy. Bác ung dung dẻo tay đưa cái đinh ba tiếp tục bới; và cúi nhặt miếng ván mục này, miếng kính vỡ này, thanh sắt chấn song gãy này, cả cái ống bơ rỉ hoen nữa. Bác ném tất cả những vật ấy vào cái bồ mây sứt cạp để ở góc thùng xe, xem chúng như của quý vậy.
            Hai bên rãnh đường, những đống rác vô thừa nhận đang lặng lẽ xếp hàng chờ bác. Chờ đợi để nhập cuộc vào thế giới rác! Đó là những quần thể lạc lõng từ mọi nhà, từ hè phố và mặt đường, được vun được đổ vào từng chỗ. Lá khô, cành cây, nút chai, vỏ chuối, rẻ lau, búi rác, bùn cống… tất cả quấn quyện lấy nhau. Những đống rác xem ra cũng khá gọn gàng. Là nhờ những nhát chổi ngay từ lúc mờ sáng của bác phu quét đường ngớ ngẩn đấy. Không có bác chăm sóc, đường phố có mà ngập ngụa rác rưởi lẫn mùi hôi thối.
            À, có những ai đã gặp người phu quét đường ngớ ngẩn ấy? Bác làm cái việc khai quang phố xá thật cần mẫn, với vẻ nghiêm trang như một ông bồi tế. Thế mà người ta bảo bác dở người. Chưa hẳn đã phải đâu!
            Rất khoan thai, bác tiến từng bước đều đặn từ chính giữa đường cái - như thể đã có ai đó vạch một đường phân luồng thẳng tắp - đưa mạnh tay chổi về hai phía lề đường, nhịp nhàng theo bước đi, tạo nên tiếng kêu lẹt xẹt như một điệu nhạc thần bí. Hai mắt bác đăm đăm nhìn mặt đường và nhìn theo từng nhát chổi quét.
            Có điều lạ là, cứ năm bước tiến lên, lại một lần bác dừng chân. Bình thản và nghiêm chỉnh đặt cán chổi xuống, bác ngả nón vái lên trời hai vái. Trong làn sương mờ buổi sớm mai chập choạng, trông bác giống một pho tượng huyền bí, đủ gây nên sự gì rờn rợn. Tôi đã gặp bác nhiều lần như thế. Ai có thể đoán được sự tình u ẩn này không? Phải chăng vì thế người ta bảo bác ngớ ngẩn dở người.
            Nhưng thôi, đã đến lúc ta trở lại cái xe rác với những đống rác hai bên rãnh đường. Những đống rác lần lượt được hót vào thùng xe. Chúng như nhẩy cỡn lên theo từng nhát xẻng hất cao.
            Hót xong từng đống rác, bác phu lại phải trèo lên xe san ấn thật cẩn thận. Một bác nữa đứng tuổi hơn, bê rổ rác đầy, rướn người đổ nốt vào thùng xe.
            Rồi, xe rác ỳ ạch lăn bánh. Hai bác phu cong người, kéo và đẩy.
            Tôi bước theo xe. Thì đã bảo là tôi đi tìm sự thực trong rác mà lại. Vậy thì còn gì hơn là theo vết bánh xe rác để đến “thành La mã” - nơi đổ rác của thành phố chúng ta. Nhưng khổ lắm. Cái mùi mục nát nặng nề cứ xoắn lấy tôi, làm cho ruột gan tôi đều muốn lộn cả lên ngực. Thế sao những người phu kia chịu được? Nghề nghiệp nó quen đi! Còn tôi, chẳng lẽ vì cái mùi khó chịu mà bỏ cuộc? Một ý định thoáng qua óc. Tôi rút khăn tay ra bịt mũi, rồi tiến lại sát người phu lục lộ đang tì vai vào cái mấu đằng sau xe để đẩy cho nó tiến nhanh thêm. Với cái giọng ngạt mũi, tôi hỏi qua chiếc khăn tay:
-          Các ông xe về đâu?
Người này ngẩng đầu lên tỏ ý ngạc nhiên, nhìn tôi tròng trọc. Hai mắt xếch dưới nếp khăn vuông bịt khít đầu, nom dữ tợn vô cùng. Bác nhìn tôi từ chân lên đầu. Và có lẽ thấy cái điệu bịt mũi của tôi nó không hợp thời, bác cười gằn:
-          Sợ thối thì tránh xa ra có được không!
Tôi vội bỏ khăn tay ở mũi, nín thở và cố mỉm cười lấy lòng:
-          Tôi không quen đấy, chứ có sợ đâu!
Và nhắc lại bằng giọng thân mật:
-          Các ông đem đổ những xe rác này ở đâu nhỉ?
Bác không rõ tôi ngớ ngẩn hay tinh nghịch. Dù ngớ ngẩn hay tinh nghịch cũng đều làm bác phật lòng. Sự phật lòng của những người hay dùng cẳng chân và cẳng tay thì thật là đáng sợ. Bác trợn mắt nổi đóa:
-          Ở đâu thì bận gì đến… hử?
Trước sự cục cằn ấy, tôi vẫn nhún nhường. Ấy thế đấy! Ở đời này, mình cần yêu cầu cái gì, mà lại yếu thế là y như phải nhún nhường. Tôi mỉm cười:
-          Thì cũng hỏi chơi vậy. Chỗ mình với nhau cả, làm gì mà hẹp hòi đến không chỉ chỗ cho nhau được à?
Với câu nói ấy thì rõ ra mình khinh bạc quá rồi. Xưa nay có ai hỏi thăm săn đón chỗ đổ rác như người hỏi đường đến nơi cực lạc bao giờ.
Hẳn bác phu lục lộ cho tôi là muốn trêu chọc bác, nên đứng sững lại và nạt nộ:
-          Tránh ra. Ở Tám Mái…
Người phu cầm bò thấy to tiếng cũng dừng lại. Khách qua đường nhìn chăm chú. Tôi nghĩ đến sự rút lui. Ngày mai sẽ phóng thẳng đến Tám Mái. Bác phu lục lộ còn hậm hực lắm, khi tôi ngả đầu chào và ngỏ lời cảm ơn.
Hừ cái cha kỳ thật, coi mình như quân thù! Thì ai bảo mình “đi trái đường”. Ăn mặc tề chỉnh như “ông phán đại”, thế mà lại muốn làm thân với rác rưởi thì lạ thật.
Hôm sau, tôi ăn mặc luộm thuộm một chút. Một cái sơ mi cụt tay mầu nâu, cái quần soóc tím bạc mầu và đôi dép cao su tã. Vớ cái xe đạp, tôi ra đi vào một buổi sáng. Sau đêm mưa bão rớt, mây còn đọng từng khối vần vũ tít ở phía tây. Gió hơi lạnh gáy.
Đường hàng Đẫy. Một con đường rẽ ngang lầy lội. Tôi lái xe vào. Bùn quyện lấy bánh xe. Có phải chỉ là bùn? Hay còn gì trộn vào đó, mà thành thứ bùn mang màu sắc khó tả, nom thật kinh dị!
Gió hút từ trước phả vào mặt. Tôi cố đạp xe tiến đến nơi mình muốn tìm kiếm. Cái thứ mùi khó chịu đã thoảng thấy. Vào nữa!... Trước mặt tôi là những xe rác ngổn ngang. Và những đống rác chất ngất cao như núi. Thế giới rác là đây. Cũng là khu vực hoạt động của thế giới ruồi, của nhặng, của muỗi…
Lập tức tôi để ý đến những đoàn người đang tìm sự sống tại nơi này. Họ gồm già, trẻ, lớn, bé, đàn ông, đàn bà… đủ cả. Nhưng phần nhiều là đàn bà. Tất cả đều quần sắn cao quá đùi, áo vá tả tơi. Ai cũng cắp cái thúng, hay cái rá, hay cái rổ, và cả mẹt nữa. Họ đều lăm lăm trong tay một cái xiên bằng sắt bẻ khoằm đầu.
Tôi thầm nghĩ: nếu tất cả số người ấy, với y phục đúng như thế, cũng cái xiên đúng như thế cầm tay, mà xếp thành hàng thì hàng ngũ ấy nói gì? Một sức mạnh khó lường. Đáng ngợi ca, hay là đáng sợ. Suy tưởng thì nhiều lắm!
Rồi, một cái xe rác lấy đà tận đằng xa sộc tới, cắt ngang ý nghĩ trong tôi. Nó muốn tiến sâu vào mép nước để trút rác. Rác từ khắp mọi nơi trong thành phố đều đổ dồn về  nơi này; vừa cho khuất mắt, vừa để lấp những mảnh ao tù. Cái xe rác phải vất vả lắm mới vượt qua nổi quãng lầy, đầy nhọc nhằn; có lúc hai bánh xe sa xuống hố bùn, gần ngập trục. Khi nó chưa kịp dừng bánh, thì cả đám đông già trẻ, lớn bé kia đã sấn tới, nhâu nhâu như đàn ruồi. Bác phu đẩy xe vừa kịp tháo chốt ván hậu, thì bác phu cầm bò đã kịp thời cho lật chổng càng lên. Rác đổ ầm thành một đống. Đám người kia vội chen nhau, nhẩy chồm lên, xô vào, bới, cào, rối rít. Nom chẳng khác cái đám cướp cháo ngày lễ cầu mát ở chợ Đồng Xuân. Nơi ấy cũng chỉ hỗn độn ráo riết đến thế là cùng. Cướp cháo lẽ dĩ nhiên là cần phải vật lộn, xô đẩy. Đói mà! Của ăn ngay vào mồm được mà!
Nhưng những đống rác kia, cướp gì ở đấy? Tôi ái ngại cho loài người, sao lại xuống giá tới bậc tranh cướp nhau rác rưởi? Mà lại là thứ rác hạng bét!
Thực chất rác chỉ là những cặn bã của thành phố đổ về đây, hôi thối và nhơ nhớp. Nó còn bị nước ao tù cùng nước mưa úng ngào ủ thêm, biến thành một cái ổ bệnh tổng hợp đầy nguy hiểm đối với con người. Thế mà họ chẳng biết sợ hãi là gì. Cũng bởi cái sự nghèo khốn cùng cực xô đẩy họ đến kiếm sống ở đây. Họ, quần xắn tới tận bẹn, cúi lom khom, ra sức đua nhau cào bới; và kéo lê ở sau lưng mỗi người một cái thúng cồm cộp những bùn đất đen thui.
Đã mấy ai trông thấy cảnh hỗn loạn của một bầy người kiếm sống trên đống rác chưa? Họ vật lộn, giành giật nhau thật khủng khiếp! Và thật đáng thương!
Năm sáu mươi cái móc sắt tranh nhau bới, bới mãi, tới tấp. Và năm sáu mươi cái lưng người khom khom, trông hệt một bầy dê giành lá ruối trên một gò đá chông chênh.
Tôi tiến sát tận nơi đám người đang cào bới. Hai bàn chân tôi ngập sâu trong bùn lầy. Mọi người không dừng tay, nhưng ngước mắt nhìn tôi bằng vẻ ngạc nhiên. Họ hầu hết là đàn bà, con gái và cả trẻ nhỏ. Có những làn da sạm nắng dầu dãi. Có những bộ mặt phinh phính ngây độn. Có những vẻ thản nhiên chững chạc. Có những vẻ non tơ tuổi dậy thì. Có những cẳng tay cẳng chân khẳng khiu, đen chùi chũi. Và cả những bộ đùi trắng nhễ nhại. Bùn đất và dơ dáy đã đắp lên họ chung một mầu cơ khổ đến cùng bậc.
Khi mỗi cái thúng đã đầy ắp đủ thứ tạp pí lù, những chủ nhân của nó mới chịu rời bãi rác. Chỉ còn sót lại vài ba cái lưng lòng khòng chậm chạp, vẫn khom khom, cần mẫn bới; như những con bò già uể oải gậm nhay cỏ trên bãi hoang khô cằn.
Làm sao tôi dễ quên hình ảnh một thằng bé, độ sáu bảy tuổi, như vừa ở hố bùn chui lên. Cái rổ đầy ụ những rẻ rách, giấy vụn, và ống bơ gỉ… đè nặng trên đầu nó. Thằng bé ỳ ạch bước đi không vững. Những dòng nước ngầu bùn từ rổ rác chẩy xuống, vẽ thành những đường vòng vèo đen kịt mặt mũi nó.
… Đến lượt mười cái xe rác khác cùng lúc xô nhau tiến vào trong bãi. Những đống rác mới lại ùn lên bên mí nước tù đọng. Lũ người bới rác lại xô đến. Cuộc bới tìm lại tái diễn với sự tranh giành ghê gớm, không kém đám loạn quân đói khát!
Một thằng bé con bị chen lấn giữa cuộc hỗn loạn ấy, ngã bổ kềnh vào gầm cái xe vừa chổng bò. Nó hét rầm trời. Chẳng thấy ai cứu nó. Chỉ nghe đám loạn quân kia cất tiếng mắng mỏ nó và cười the thé.
Tôi vội chạy tới kéo thằng bé ra, lòng đầy bất mãn mà chẳng biết trút vào ai. Cùng lúc, người phu lục lộ dìm càng xe xuống, để thằng bé thoát được dễ dàng. Rồi ông ta nhe răng cười:
-          Ôn con cũng khỏe xông lắm. Vỡ đầu chưa con?
            Thằng bé vừa được lôi ra khỏi xe, vội vàng chồm dậy, hung hăng vơ lấy rổ và móc sắt, chen vào bới lia lịa. Nó lại bị thằng nhớn hơn hích cho một cái ngã ngồi thụp xuống. Nó lại chồm lên. Tôi nghĩ cần tìm cách cản thằng bé lại, để nó khỏi bị bắt nạt. Nhưng người phu xe đã bước đến cạnh tôi bắt chuyện:
-          Chúng nó vẫn có cái thói ấy ông ạ! Nào ai nuốt biến được đâu mà chúng cứ vội!
Bác cười hề hề hai tiếng và nói luôn sang chuyện khác:
-          Cái lũ nhóc này cứ hay xông xáo như ông tướng ấy. Năm ngoái đã có một ôn con chết bẹp dưới đống rác đấy ông ạ!
            Tôi giương mắt nhìn bác, hồ nghi. Tôi có chờ đâu những cảnh đau lòng sót ruột như thế này. Nhưng tôi vẫn hỏi, sau khi cất nhẹ tiếng thở dài:
-          Thật thế ư?
-          Thật mà. Năm ngoái còn lấp cái hồ ở đằng kia - bác chỉ tay về phía ngõ - rác đổ thành núi. Những ông tướng con hùa nhau trèo lên bới móc thế nào chả rõ, khiến cả một nửa đống rác to bằng cái nhà sụt lộn xuống hồ, lấp lên một chú. Lúc moi được lên, nó đã chết nhăn răng rồi.
            Câu nói vừa dứt thì một bác phu bạn chạy tới, nói to như gắt gỏng:
-          Sắp đến giờ nghỉ rồi đấy. Còn đứng mà chuyện hở?
            Rồi bác chỉ cái bồ mây đầy vải vụn, giấy vụn, củi vụn… hai mắt long lên sòng sọc như mắt long thần. Tuy vậy, bác cất giọng nói khác hẳn vừa rồi, thật nhã nhặn:
-          Nặng lắm, khiêng hộ với. Bố ai cắp được một mình cơ chứ!
            Sau lời chào, bác phu nói chuyện với tôi xốc tới bên cái bồ. Với thân hình to như ông hộ pháp, cái bồ bị đôi bàn tay bác nhấc lên thật dễ dàng:
-          Đồ ăn hại, thế này mà kêu nặng!
            Thuận tay bác phập luôn cái đinh ba vào thân bồ, úp mấy cái rổ hót rác lên trên. Bác vặn mình một cái, xốc bồ lên vai, thoăn thoắt bước đi. Lát sau tôi còn nghe rõ tiếng bác văng tục và chửi đổng cái cuộc sống khốn khổ khốn nạn này.
            Ý chừng bác phu bạn cũng nghe rõ tất cả. Bác lộ vẻ khoan khoái nhìn tôi, chào rồi đi.
            Vừa lúc ấy, một xe rác định xô vào bãi. Nhưng người phu cầm bò lỡ chân làm mất đà, nên hai bánh xe bị sa xuống hố bùn, ngập tới trục.
            Người phu đẩy sau tức giận, hoa chân múa tay, mắng bạn như tát nước. Tôi tưởng chừng như bác ta bóp chết bạn ngay. Bác cầm bò không kìm nổi bất bình bởi những lời bị mắng, dằn mạnh càng xe xuống, hùng hổ không kém. Bác phu khác vội chạy lại hòa giải:
-          Đánh nhau à, đánh nhau à? Hố bùn sâu như vậy mà thiếu chính xác, lại không gắng sức nhanh chân lên thì có mà sang ăn cứt! Thôi cầm càng đi. Còn anh, bắt bánh với tôi!
            Khi càng xe được nhấc lên, hai người phu phía sau ra sức bắt bánh. Nhưng cái xe rác cứ ỳ ra, không nhúc nhích.
-          Cố lên! Dô ta nào… dô… ô… ta…a!
            Tiếng hò to, như để vận thêm sức. Nhưng hai bánh xe vẫn thản nhiên một cách gan góc. Rồi một câu chửi bâng quơ và cái vẫy tay về phía những người bới rác:
-          Các cô các cậu mình, lại đẩy dùm chúng anh một tay. Mau lên! 
            Vài ba người kéo đến bên xe rác.
            Một cô nàng răng rất đen, má lúm đồng tiền, da bánh mật, đảo mắt nhìn mấy bác phu, bĩu môi nguýt dài:
-          Làm phách thế, chúng anh với ai?
Và cô cười thật duyên. Một bác phu toét miệng, mắt sáng ngời, đối đáp:
-          Chúng anh với các em chứ ai!
            Rồi tức thì, họ xúm lại đẩy xe rác. Cái xe băng qua hố không mấy khó khăn. Nhờ sức tập thể mà.
            Cùng lúc, thằng bé con hung hãn suýt chết vừa rồi, nách cắp một rổ nặng, vai vác lá cờ giấy đỏ nó vừa bới được, nét mặt phởn phơ, sải chân bước đều, vươn cổ hát vang:
-          “Cùng chung sức kiến thiết xây đời mới…”.
            Thằng bé đã gây được cảm tình đối với mọi người. Tôi nẩy ý niệm: Sức phấn đấu và lòng quả cảm của con người phải chăng chỉ tìm được ở những tầng lớp cơ khổ. Sự mưu sinh đã bắt buộc họ phải luôn luôn vật lộn với gian nan để vượt qua! Ai khôn khéo gây được sự phục tòng ở họ, sẽ chắc chắn có một hậu thuẫn vô cùng mạnh mẽ. Và, cũng chắc chắn sẽ nhận được ở họ lòng hy sinh không bờ bến cho mục đích cao cả…
            Tôi bước theo chân thằng bé. Nó đội rổ rác đi ra phía đường cái. Ở đấy, bên bức tường cao ngất của một nhà máy, những người bới rác xếp thành từng đống những phế thải bới được. Và họ đang lựa chọn để xếp riêng ra từng loại.
            Giấy vụn đi với giấy vụn; giẻ rách đi với giẻ rách; mảnh sắt tây với mảnh sắt tây; còn cành cây, que nứa, mẩu gỗ thừa, lá khô, rổ rá rách… vào một đống; và, những mẩu xương thừa cũng riêng một chỗ. Tôi quên nói tới những mảnh kính, mảnh chai, mảnh cốc vỡ nữa… đều được họ nâng niu xắp đặt rất cẩn thận.
            Tôi tò mò hỏi người đàn bà đang kéo vạt áo lau mảnh gương vỡ:
-          Sao phải chọn để riêng từng thứ thế hở bác?
            Người đó ngẩng lên ngơ ngác nhìn tôi, không đáp. Nhưng có tiếng nói từ phía sau tôi:
-          Phải chọn ra từng thứ chứ!
            Ai đã trả lời câu hỏi của tôi. Tôi quay lại. Đó là người phu lục lộ đã tiếp chuyện tôi dài dài lúc trước. Bác nhìn tôi bằng ánh mắt thông cảm và cười hề hề.      Tôi cũng cười theo:
-          Chọn ra để làm gì, bác?
Bác phu nhanh nhảu, thân mật:
- Ơ hay, để bán chứ làm gì. Tiền cả đấy ông ạ!
Và bác ngồi sụp xuống, bới đống thủy tinh vụn:
-          Chỗ này, năm ngoái thì khớ tiền đây!
Tôi trỏ đống cành cây và gỗ mục:
-          Người ta mua cả những cái này?
Bác phu lại cười hề hề, ý chừng cho tôi là ngớ ngẩn.
-          Không! Những cái ấy phơi khô để đun, đỡ ối tiền củi!
-          Thế còn rẻ rách, giấy vụn?
-          À, những cái ấy thì bán!
            Tôi ngẩng lên thì bắt gặp cô nàng má lúm đồng tiền lúc nẫy, cắp một rổ đầy phế thải. Cô nhìn tôi cười. Hai đồng tiền trên má cô cũng cười. Hàm răng đen đều tăm tắp. Cô hỏi bác phu:
-          Bác Tớp ơi, ông khách mua gì vậy?
            Tôi nhanh nhảu trả lời thay bác phu - gọi bác Tớp cho tiện - và không quên mỉm cười:
-          Không cô ạ! Tôi không mua gì cả. Nhưng cô có cái gì bán cho tôi để tôi mua được không?
Cô cười khanh khách:
-          Ông dớ dẩn chửa! Em biết ông mua cái gì mà em bán?
Bác Tớp nhìn cô bé, cười ranh mãnh:
-          Ông ấy muốn mua hai hàm răng của cô đấy!
Người đàn bà lau gương ngừng tay, ngẩng lên:
-          Thôi bán cho ông ấy, lấy tiền mà ăn quà vặt.
-          Ông có mua… em… thì em bán!
Nói xong, cô cười ngặt nghẽo và cắp rổ chạy biến.
Cả bọn đang ngồi chọn rác đều ngừng tay nhìn tôi, cười thích chí.
            Đời sống ở đây hẳn bình dị lắm, thì người ta mới có thể vui đùa trước một câu bông lơn không đâu ấy.
            Tôi cười theo họ và thân mật vỗ vai bác Tớp:
-          Thế ra ở đây cái gì cũng bán được?
Bác gật gù:
-          Đúng thế. Mà bán được giá nữa kia.
            Và bác tiếp:
-          Này nhé, năm ngoái hồi còn loạn, thủy tinh vụn có khi lên tới hai mươi tám, ba mươi đồng đằng trắng ấy; bây giờ cũng bán được tới mười tám đồng.
-          Mười tám đồng, bao nhiêu cân?
-          Một tạ. Mà thủy tinh màu thì mười ba mười bốn đồng.
-          Ai mua nhỉ?
Bác Tớp trợn tròn xoe hai mắt nhìn tôi:
-          Những lò thổi thủy tinh ấy mà.
-          Họ đến đây mua nhặt à?
-          Không. Chúng tôi bán cho người mua vét chứ. Ối chà, ông lại đây mà xem thủy tinh, có hàng kho.
            Bác kéo tôi đi, chẳng cần hiểu tôi là hạng người gì. Bác tin cậy và thân mật với tôi như với một người bạn cố giao.
            Tôi vui vẻ theo bác. Những người chọn rác ngồi thành một hàng dài, dọc theo bức tường nhà máy. Tôi tò mò nhìn từng người, và dừng trước cô gái nhỏ đang ra sức nện những hột bàng đen kịt bùn cống. Cô bới được một rổ đầy hột bang, rồi kỳ cạch đập lấy nhân. Một vốc tướng nhân bàng cô khều được, để ngay ở cạnh; mồm thì tóp tép nhai.
            Tôi cúi xuống hỏi cô bé:
-          Em khều cái này ra để bán à?
Cô nhỏ nhìn tôi ngạc nhiên:
-          Không. Để ăn.
Bác Tớp dẫn giải:
-          Nhân hột bàng ăn bùi lắm.
            Nhặt một nhân hình thon như cái thoi bằng ngà nho nhỏ, bác nghiền mạnh trên hai ngón tay:
-          Ông xem, nhiều dầu lắm. Giá ép ra mà ăn có lẽ ngon hơn dầu lạc.
            Tôi cũng nhận thấy thế, và tự nhủ: Sự cần dùng cho cuộc sống đã khiến loài người nghĩ ra nhiều cái bất ngờ. Ừ mà sao người ta không ép cái thứ dầu hột bàng ấy mà bán thay dầu ô liu đang khan hiếm? Có thể là nguồn cung cấp hột bàng quá nhỏ bé chăng?
            Tiếp theo, bác Tớp dẫn tôi bước qua cái cổng tuyềnh toàng sác sơ, làm bằng mấy mảnh tôn ống máng. Trong cổng là khu nhà cũ kỹ lụp sụp, mái lá còng xuống gần sát đất. Mấy ngôi nhà - gọi là túp cho đúng - lọm khọm quây quanh một cái sân đất nện nhẵn thín. Ở sân, những toán người của bùn đất đang tíu tít chọn rác để phân ra từng loại.
            Đứng giữa sân là một người đàn ông mặc quần lĩnh thâm bóng nhoáng, áo dòng dọc kẻ to, đầu vuốt mỡ trơn, tay chắp đít, coi vẻ một ông trùm. Người đó quay nhìn chúng tôi. Hai mắt hiếng, vành mi sứt mẻ, ông hất hàm hỏi:
-          Cái gì đó bác Tớp?
Bác phu lục lộ lúng túng với câu trả lời. Tôi liền đỡ:
-          Tôi muốn hỏi ông một chút việc.
            Ông ta ngạc nhiên buông thõng hai tay, giương mắt nhìn, ý muốn hỏi: Ông cần gì tôi mới được chứ?
            Bác Tớp nhanh nhảu:
-          Ông ấy muốn xem hàng.
Ông áo dòng dọc vụt niềm nở:
-          Ông muốn dùng thủy tinh vụn? Mời ông vào nhà chơi!
            Và ông quay gót đi vào phía trong. Tôi bước theo, lòng phân vân vì sự hiểu lầm của ông. Nhưng biết làm cách nào hơn là cứ nhắm mắt bước theo. Rồi sẽ có cách ứng phó thôi!
            Ngồi trong căn nhà thấp lẹt tẹt, tôi để ý thấy ngổn ngang những đồ đạc, và đều là đồ đạc “tạp pí lù” cả. Một bộ bàn ăn kiểu mới nhưng tàng tàng; tủ cốc, tủ rượu, tủ chè; cả cái giường gọng đồng; lại cả một cái đi-văng. Chung quanh tường vách còn chồng chất bao nhiêu là ghế, và bàn nước, và kỷ, và cả bộ bàn thờ sơn son thiếp vàng bong rộp cũ kỹ.
            Ngồi tại chỗ, tôi còn nhìn thật rõ cả căn nhà sát nách. Một bên đầy ắp thủy tinh vụn; và bên cạnh, một đống đầy ụ những giẻ lau tã rách. Căn nhà này còn lẹt tẹt lụp xụp hơn nữa. Cũng bởi vậy mà mặt đất, không gian nơi đây sặc mùi khăn khẳn bao trùm. Và ruồi. Hằng hà sa số là ruồi. Đã vậy, nhìn mấy chén nước đỏ màu máu đỉa, đặt trên bàn, khiến tôi càng khiếp sợ. Nhưng tôi cố giấu cảm giác đó. Chủ nhân hân hoan kéo cái điếu ống trúc vào lòng. Có thể ông hy vọng vớ được mối khách xộp ăn hàng là tôi. Còn bác Tớp thì vê sẵn mồi thuốc, chờ tiếp lửa.
            Tôi nghĩ cần phải “lấn đất” để mau cải chính sự hiểu nhầm của chủ nhân, để sự tiếp đón đỡ vồn vã nữa. Nhất là, để tôi cũng đỡ bối rối.
            Đợi cho que diêm tàn trên nõ điếu, và chủ nhân chiêu xong một tợp nước, tôi bắt chuyện với tất cả sự mềm dẻo lịch sự:
-          Thưa ông, tôi đến quấy rầy ông một chút, xin ông tha lỗi cho. Cũng xin ông vui lòng cho tôi được hầu chuyện. Thưa ông, tôi muốn điều tra về nghề…
            Tôi lúng túng chưa biết gọi là nghề gì cho thích hợp với hoàn cảnh. Chủ nhân thì bỡ ngỡ với sự đột nhiên thay đổi ấy trong giây lát. Bằng vẻ mặt nghiêm trang, với lời lẽ có vẻ khúm núm:
-          Bẩm thế ngài điều tra về vụ gì ạ?
            Thôi chết rồi, sau khi nhầm tưởng tôi là khách hàng, ông chủ nhà lại nhận nhầm tôi là nhân viên mật thám. Tiếng “điều tra” đã đem lại sự hoài nghi giữa chủ nhân đối với tôi. Không thể trách ông. Bởi vì cuộc sống đã xui ta cần hoài nghi; nhất là khi ta vướng phải một nhân viên ty liêm-phóng, dù nó chỉ là tên chỉ điểm. Lại nữa, nước nhà chưa hẳn độc lập, quyền dân chưa được tôn trọng, quá khứ nặng nề bởi sức đàn áp kinh khủng vẫn còn để lại sự đau buốt trên hai vai lớp người thấp cổ bé họng; nên trong tâm trí họ, nỗi lo mình có thể bị tóm cổ bất cứ lúc nào, luôn luôn ám ảnh ngày đêm. Bị tóm cổ cũng có nghĩa là bị tra tấn, bị mất tiền, còn phải van lạy nữa...
            Nghĩ thế, tôi tìm lời dẫn giải, nhằm xóa đi sự hiểu nhầm trong ông:
-          Thưa ông, tôi không phải là mật thám.
Chủ nhân “à” một tiếng, nét mặt vụt vui vẻ trở lại. Tôi tiếp lời:
-          Ông làm ơn cho biết những mánh khóe về nghề… nghề buôn bán thủy tinh vụn và… và rác…
            Nhìn kỹ vẻ mặt ông có phần ngớ ngẩn; với hai mắt toét nhoèn giương to, đục lờ lờ. Có thể vì sự làm ăn vất vả quanh năm đã tạo nên bộ mặt khó coi nơi ông. Ông thực sự có phải con người tốt? Hay… Thấy ông ngần ngừ, tôi đành nói thêm, cốt để sớm tạo sự bình thường giữa hai phía:
-          Chả giấu gì ông, tôi định theo nghề buôn hàng cũ và đồng nát, nên muốn xem xét kỹ lưỡng một chút. Vốn tôi ít, và lại bỡ ngỡ, nên còn rụt rè lắm. Được bác Tớp giới thiệu ông là người lão luyện ở đây, nên tôi đến nhờ ông chỉ bảo giùm.
            Chà, cái mặt ông chủ nhà lúc này đã “vác” lên. Với giọng kẻ cả, ông nói:
-          Tôi tưởng gì!... Còn cái đó thì, nói “khi phép” ông, với tôi chỉ là tay trái… tay trái! Có gì đâu!...
            Ông im bặt, rung đùi. Còn bác Tớp đã lủi đâu mất. Tôi tiếp tục khơi mào bằng cái sự tâng ông lên một tý. Ông đắc chí, nói:
-          Nghề nào chả có những sự bí mật. Nhất là nghề này, vơ vét bao tiêu từng cái rẻ rách, mảnh chai... thì phải biết làm sao để có lãi. Nhưng lại phải biết giữ tín nhiệm với cả người bán lẫn người mua nữa. Chỉ với những ai đặt gánh lên vai  đi rong phố để mua “vỏ chai bao chè đồng nát” kia, thì cái sự lừa lọc, gian ngoan mới cần. Chứ đây, ở cái xóm này, biết nhau cả, thì việc giữ tín nhiệm với nhau là cần thiết lắm. Tín nhiệm không ở lời nói mà phải tuân theo nguyên tắc: Kẻ mua người bán cùng có ăn. Tức hai phía cùng được, cùng tồn tại, phải không? Cái nghề buôn bán cũng như mọi nghề khác, không thể nghĩ phần thắng chỉ giành cho riêng mình. Nhưng mà, nói thì dễ, còn làm khó lắm.
Tôi tỏ sự vụng về:
-          Phải chính thế. Nhưng còn cái thứ xương khô thì hẳn là để làm khuy, làm lược, làm cán bàn chải phải không?
Chủ nhân vênh bộ mặt, vẻ lão luyện:
-          Ừ, thế thì ông không biết rồi. Cái của ấy chỉ người Tàu họ mua. Ông có biết họ làm gì không?
            Ông hất hàm hỏi tôi. Tôi ngây mặt. Biết họ làm gì với những mẩu xương chó gặm ấy. Chủ nhân yên lặng một giây và thành thạo:
            - Họ đốt làm than để lọc đường và làm… làm gì nhỉ… làm cái chất hóa ve mà người ta gọi là “loa a man” ấy mà.
            Tôi chợt nhớ, nói:
-          À, làm noir animal - than sinh vật ấy mà.
Chủ nhân gật lấy gật để:
-          Phải rồi, phải rồi, làm cái ấy đấy, cái gì “loa o man” ấy. Khi xưa còn tàu đi các nơi, họ tải ra ngoại quốc từng tàu đầy chặt. Đủ thứ. Cả lông gà lông vịt nữa, chả có sót cái gì đâu. Mà kể họ cũng thần tình. Lông vịt mà họ “diệt” - ý ông muốn nói: dệt - dệt thành gấm vóc, kể cũng thánh.
            Và ông kết luận một cách tán thưởng:
-          Thế mới biết ở đời không có cái gì vất đi cả. Những cái vất đi, thường lại là những cái quý giá. Ông trời sinh ra lắm cái lạ thật!
            Với tôi, lạ nhất ở những cái vứt đi ấy, lại là nguồn sống vô tận cho cả một lớp người lem luốc, khốn cùng. Từ lâu nay, cái xóm nhỏ với số dân cư đông đúc và nghèo khó này, họ đã sống một cách hoàn bị, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi tưởng rằng, khi bước chân vào đây sẽ gặp phải những cảnh sống cơ cực đau thương đến não lòng, với những cuộc đời vô cùng thảm hại không phải dành cho con người. Nhưng sự thật đã cho tôi nhìn thấy một cuộc sống khác hoàn toàn. Tuy chẳng sán lạn giàu sang gì, nhưng không hề có tiếng thở dài than vãn, và một không khí lao động sôi nổi miệt mài thật đáng quý.
            Tôi chỏ những người ngồi chọn rác phía ngoài sân, hỏi chủ nhân:
-          Họ là người nhà ông?
-          Không, không… - chủ nhà vội cướp lời - Họ là người trong xóm cả. Bới được bao  nhiêu, họ đem lại đây chọn để bán tất cho tôi. Ấy chỉ có họ là lợi nhất. Chẳng cần một xu nhỏ vốn. Bán được tiền, “sực” luôn, lại chẳng bao giờ thất nghiệp hết. Rác còn, việc làm còn. Hằng ngày mỗi người bỏ nhỏ cũng kiếm được hai ba đồng, ông ạ. Ba đồng đủ “chén” rồi. Cần gì đời!
Sau một mồi thuốc lào, ông lại ung dung từ tốn nói:
-          Mà có khó nhọc mấy đâu. Đứng ngoài nhìn vào thì tưởng những người sống nghề bới rác này không thể sống được, phải không ông?
            Tôi liếc nhanh ra sân để nhận chân thêm về đám người kiếm tìm miếng ăn trong bùn rác. Họ vất vả khó nhọc đến đâu? Bảo không khó nhọc là không đúng. Bởi vì, những người kiếm ăn bằng nghề này đều ở cảnh ngộ nghèo khó, không có khả năng tìm những việc nhàn nhã để nuôi sống bản thân và gia đình họ. Chọn nghề này, với họ đều bất đắc dĩ cả thôi.
            Ông chủ kể tiếp:
-          Ấy nhưng… làm cái nghề dớ dẩn này thế mà hay. Hàng trăm gia đình ở cái xóm này, bản xứ cũng như ngụ cư, khối người có của để dành cơ đấy, ông ạ…
            Bất giác tôi hỏi:
-          Cả ngụ cư à?
-          Vâng, ngụ cư. Họ chiếm khoảng một phần ba. Đều là dân cùng đinh. Do số phận; và trộm cắp, bài bạc, đủ cả. Nhưng đến đây đều phải thuần. Không thuần, dân chúng tôi cho bật bãi ngay. Chịu lam làm thì được sự đùm bọc cảm thông, ông ạ. Cảnh nghèo bọn tôi dễ hiểu nhau lắm. Ăn nói có khi cục cằn, nhưng quên ngay ấy mà.
            Tôi ngạc nhiên biết bao trước những điều ông kể. Và tôi thầm thấy ngường ngượng với ý nghĩ thương hại, cả coi thường, đám người lam lũ bẩn thỉu, mà trước đây mình thường gán cho họ. Cho hay, những kẻ tự phụ nghĩ mình hiểu thấu mọi ngóc ngách cuộc đời thì… hóa ra chỉ là kẻ ngu! Kẻ ấy mới thật đáng thương hại, đáng nguyền rủa.
            Tôi thầm sượng sung, nhưng cố lái câu chuyện trở lại việc bán - mua:
            - Thế ông mua của họ ra làm sao?
-          Ấy mua mớ chứ, vả lại có giá cả đấy. Này nhé, như thủy tinh thì đằng màu một giá tiền - đằng màu, giá bét đấy. Còn đằng hung hung một giá, đằng trắng tinh một giá. Mà, liệu mớ giả tiền không có nghĩa là bắt chẹt người bán đâu. Họ chẳng lơ ngơ đâu. Mớ của họ là bao nhiêu cân, họ đều biết cả. Họ học nhau mà. Còn giá cả thì… người mua không dễ bắt chẹt họ. Bán cho tôi, có lợi thì họ chơi; thiệt họ đem đi nơi khác. Vậy là chơi với tôi, họ thắng tôi cũng thắng… Cả hai bên đều thắng. Làm ăn với nhau mà bên nào cũng thắng, thế mới bền vững. Bên thắng bên bại thì… có là anh em ruột thịt cũng tan.
            Tôi gật đầu tỏ sự đồng tình. Lại hỏi:
-          Ông chỉ mua có thủy tinh?
-          Không! Rẻ rách, xương khô, giấy vụn, đủ… cái gì mà chả mua. Cái gì có người mua thì mình cũng mua.
-          Người ta mua thủy tinh vụn để nấu lại đã đành; còn giẻ rách, giấy vụn, họ mua làm gì?
Chủ nhân giương cặp mắt đục, tỏ vẻ ngạc nhiên:
-          Ơ hay, ông không biết à? Giẻ rách người ta mua để lau máy. Khi trước có nhà máy giấy, họ mua để làm giấy. Còn giấy vụn, họ mua về nấu làm giấy mới.
            Nghe những người chọn rác gọi vào ơi ới, chủ nhân đứng dậy. Tôi theo chân ông, cùng ra sân. Người trong xóm đã cùng một lúc đổ xô lại đây rất đông. Họ lố nhố đứng chật cả sân; với những thúng mủng, rổ rá đựng đầy mảnh kính, giấy vụn, giẻ rách... Họ đem hàng đến đây để bán cho ông. Trong đám người này, tôi thấy cả thằng bé cầm cờ hát Tiến quân ca “… Cùng chung sức kiến thiết xây đời mới…”.  Nghe người ta nói, bố mẹ nó chết đói ở đâu đó rồi. Nó trôi dạt đến đây một mình, sống bằng cái nghề bới rác. Trên đời này, không biết có bao đứa trẻ khốn khổ như nó? Song tôi tin: Rồi nó sẽ nên người! Nó với lớp người trẻ cùng thế hệ sẽ xây dựng thành công cuộc sống mới no đủ, tốt đẹp hơn; sẽ quét sạch mọi xích xiềng…
            Lúc này, bác Tớp đã rửa ráy sạch sẽ, còn khoác thêm cái áo bành tô vàng. Nom tươm lắm. Bác tới nắm tay tôi kéo đi. Tôi ngỏ lời cảm tạ và gật đầu chào chủ nhân. Chủ nhân bận tíu tít, nên chỉ kịp mỉm cười chào, cùng lúc giơ tay cho tôi bắt.
            Ra khỏi cổng, bác Tớp trịnh trọng mời:
-          Ông lại nhà cháu xơi chén nước.
            Chẳng cần biết là tôi có bằng lòng không, bác kéo tôi tới một căn nhà hai gian nhỏ tùm hụp. Tôi hân hoan trước sự niềm nở của người bạn mới.
            Nhà bác Tớp sạch sẽ đáo để. Cũng hàng đống thủy tinh, rẻ rách, mảnh tôn… nhưng tất cả đều ngăn nắp gọn gàng.
            Bác chỉ cái phản mời tôi:
-          Ông ngồi chơi. Tôi đoán hẳn không sai, ông viết báo phải không? Tôi đoán ngay lúc gặp ông ở ngoài bãi rác đấy. Quí hóa quá, tôi thích xem báo lắm. Từ năm ngoái, học được chữ quốc ngữ của Hội Truyền bá, tôi như sống lại ông ạ. Bây giờ thì tôi thạo lắm, đọc thông được văn tự rồi. À mà, nom ông cũng nhanh nhảu và hiền lành như các thầy giáo Truyền bá ấy. Nom thấy ông, tôi mến ngay. Các ông giỏi lắm,  phải không ạ?
            Tôi ngồi yên lặng để nghe bác Tớp trầm trồ khen. Khi mà con người có tấm lòng trung thực, chất phác thì ngôn ngữ cũng thể hiện đúng họ, và thật dễ tin dễ yêu. Tôi hiểu, bác đã cố tìm những lời thanh lịch, khác với thứ ngôn ngữ hàng ngày mà bác quen dùng, nên câu chuyện có sự dè dặt và đứt quãng. Vì cố tìm kiếm thứ ngôn ngữ khác lạ, nên đôi chỗ bác nói có chút ngô nghê. Nhưng tôi vẫn nhận rõ sự thành thực ở bác.
            Bác rót cốc chè tươi nóng mời tôi, và thông cái điếu cày đang cầm trong tay. Tôi thân mật hỏi:
            - Bác vừa làm phu lục lộ, vừa buôn các thứ kia? - Tôi trỏ những đống phế thải ở từng góc nhà.
            Bác Tớp lắc đầu:
-          Đây là nhà em bới được, gom vào để rồi bán cho người buôn. Ở xóm này, người buôn phế thải không phải chỉ riêng nhà ông Hai - nơi ông vừa đến đâu. Nhưng em và phần đông bà con xóm này thích bán cho ông ấy. Làm ăn như ông ấy, phát tài ra phết. Ông không biết chứ, buôn thất nghiệp lãi quan viên đấy. Người bới chỉ đủ ăn; chứ các “cụ” ấy thì làm giầu, mà giầu tiền hàng vạn cơ.
-          Hàng vạn cơ à? - Tôi ngạc nhiên hỏi.
-          Chứ gì! Ông tính mỗi một gian nhà thủy tinh vụn của bên ấy bao nhiêu không, hàng tấn đấy. Còn các thứ khác chứ! Phải có nhiều tiền thì mới bao tiêu được, ông ạ!
-          Ừ nhỉ, kể cũng phải lắm tiền. Nhưng chắc bên ông ấy dựa được vốn của cha mẹ?
-          Không phải đâu. Ăn nhau cái vận cả ông ạ. Ngày trước ông ấy cũng đi bới như những người ông đã nom thấy ngoài bãi. Thế mà phúc tổ, một hôm bới bới moi moi được nay một phong bì nhỏ, trong đựng cái xuyến vàng ông ạ. Thế là phất từ đấy. Bây giờ thì “sụ” lắm rồi. Dự định sẽ xây nhà đàng hoàng to đẹp vào năm tới đấy. Ấy số giời cho được của mà. Ông tính xem có phải không nhé, cái phong bì qua mặt bao nhiêu người nhé: Anh nhỏ quét nhà này, mấy anh phu lục lộ thu gom rác này, lại cả một lô người bới bãi rác này. Thế mà rút cục cái phong bì nhỏ bé ấy rơi ngay vào tay người ta… Không bảo giời cho thì còn là gì?
            Mắt bác Tớp long lanh, rít mồi thuốc xong, uống luôn một hơi nước chè nóng. Tôi đùa:
-          Chắc bác cũng đã có lần nhặt được cái phong bì như thế?
Bác trợn tròn hai mắt:
-          Của đâu sẵn thế. Mình đâu có phúc. Mả đất chưa phát ông ạ. Nhưng vợ chồng chúng em không hề dám phụ thổ công và tổ tiên ông bà mình. Thổ công cho mình ở. Còn tổ tiên ông bà cha mẹ là những đấng sinh thành dòng giống nhà mình. Không có tổ tiên, cha mẹ, thì sao có mình được. Cái ơn sinh thành to lắm ông ạ. Kẻ không biết đến nguồn gốc là bất hiếu, không đáng làm người. Phải không ông?
            Tôi gật gật đầu, tỏ rõ lắng nghe. Nhưng tôi vẫn để ý đến cái ban thờ của nhà bác. Bởi nhà chật chội, nên ban thờ được treo cao sát vách hậu ngôi nhà. Hai bát hương chật cứng chân hương, chứng tỏ gia chủ không lơ là việc thờ cúng.
            Biết tôi để tâm đến ban thờ nhà mình, bác Tớp nói như thanh minh:
-          Xin ông cảm thông cho cảnh nghèo nhà chúng em. Muốn có bàn thờ khang trang hơn không thể được. Mà cả cái xóm nghèo này, trừ vài nhà, còn lại đều thờ cúng úi xùi tựa nhà em. Thôi thì… lạy các cụ xá cho! Cũng xin ông đừng cười dân chúng em mê tín.
            Tôi lắc đầu:
-          Không không… Thờ cúng tổ tiên không phải là mê tín. Đó là phong tục tốt cần phải duy trì gìn giữ. Đó là cái đạo “uống nước nhớ nguồn”.
            Bác Tớp tỏ vẻ ngạc nhiên:
-          Được ông giảng giải, em thấy sáng thêm cái đầu. Vậy là em yên tâm về sự thờ cúng trước nay, cả sau này nữa.
            Tôi lại nói:
-          Thờ cúng không thể bãi bỏ. Và càng phải lao động chuyên cần, để cuộc sống mỗi ngày khấm khá hơn.
            Bác Tớp gật đầu lia lịa:
-          Kể như nhà chúng em đây, hay tất cả dân xóm này, tuy nghèo song không ai đến nỗi đứt bữa. Mèng ra cũng đủ ngày hai bữa, bữa hai bát cơm, ông ạ. Vì là, không một ai là không kiếm ra tiền. Trong mỗi nhà, thằng con nhỏ cũng làm được dăm hào một ngày.
Ngắt lời bác, tôi hỏi chen:
-          Cả thời kỳ đói kém nhất vẫn ổn chứ?
-          Ấy, thời kỳ ấy thì mọi thứ ở đây đều khan hiếm. Nhưng mà bán phế liệu lại được giá cao. Cao thì cao, song chẳng mấy nhà có tiền để dành đâu. Bán được cao nhưng phải cái ăn uống đắt đỏ. Nhưng ông ạ, ăn đắt còn có mà ăn là phúc lắm. Bởi thế, lúc thiên hạ chết ngổn ngang ra, thì ở xòm nghèo này không ai chết đói. Thế có lạ không ông?
            Bác Tớp gật gù cái đầu, ra vẻ mãn nguyện. Tôi thấy lòng mình cũng êm ả với ý nghĩ: Số kiếp lớp người vật lộn đêm ngày trên đống rác tuy khổ cùng tận song không thể cụt đường sống và niềm hy vọng. Tâm hồn họ tuy mộc mạc đơn sơ, nhưng có lẽ trong sáng hơn hẳn những kẻ lắm tiền nhiều bạc xưa nay!
            Tôi nâng cốc nước chè tươi đưa lên miệng. Hơi nước thơm phảng phất thật dễ chịu. Nước chè tươi - thứ nước uống thuần khiết và thanh đạm biết bao; hệt như cái cách suy nghĩ giản đơn, thuần phác của lớp người nghèo khổ vậy!
                                                                                                                      (Sang thu năm Dậu)
  
(*) Phóng sự mang bút danh Thiên Tinh. Đăng báo Sinh Lực; (*) Sách “Lộng Chương - Để đến… Nơi đến”, Nxb Sân khấu, 2013.
(*) Ra trọn trong 6 số năm 1945.
 Số1, ngày 7 tháng 10; Số 2, ngày 14 tháng 10; Số 3, ngày 21 tháng 10; Số 4, ngày 26 tháng 10; Số 5, ngày 4 tháng 11; Số 6, ngày 21 tháng 11.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét