Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

ĐỂ ĐẾN... NƠI ĐẾN(*)

Lời NXB: “Để đến… Nơi đến” là vở kịch cuối cùng của Nhà soạn kịch Lộng Chương. Vở được khởi bút vào năm 1996. Tuy nhiên, cho đến khi tác giả qua đời (26/6/2003), vở “Để đến… Nơi đến” vẫn chưa được hoàn thành. Lý do bởi sức khỏe không cho phép ông thực hiện xong ý định của mình.
“Để đến… Nơi đến” đề cập tới viễn cảnh đổi thay tại một vùng nông thôn nước ta vào đầu Thế kỷ XXI, khoảng những năm cuối thập niên thứ ba. Viễn cảnh đổi thay chỉ được tác giả dàn dựng thoáng qua ngay khi vào kịch, để hướng người đọc (người xem) quay trở lại những vất vả khó khăn ở thời kỳ đầu thực hiện chuyển đổi cách làm ăn “Để đến” cái đích là “Nơi đến”.
Khó khăn chưa thấy từ trên trời đổ xuống, cũng chưa thấy từ phía kẻ thù; mà, qua 5 cảnh kịch ta mới biết từ người dân, từ ông đội trưởng sản xuất, từ vị chức sắc nhỏ trong nhà thờ Thiên chúa giáo gây nên.
Đương nhiên sự thắng lợi đạt được  là do sức mạnh vượt trội từ đông đảo cán bộ các cấp và người dân trên địa bàn - nguyên nhân tất yếu, ta từng gặp trong mọi tác phẩm văn học kịch và ngoài đời.
Mặc dù “Để đến … Nơi đến” chưa trọn vẹn, song nó đã mở hướng đi khá rõ cho câu chuyện. Cho dù đến cuối thập niên thứ 3 - Thế kỷ XXI này, ta chưa thấy vùng nông thôn nào đạt tới viễn cảnh đẹp như trong kịch bản, thì điều đó cũng chẳng đáng phàn nàn. Bởi, sự lãng mạn nhìn nhận tương lai của Nhà soạn kịch Lộng Chương là phù hợp quy luật phát triển xã hội. Và, ta rất nên trân trọng ý tưởng Tác giả, khi ông hạ bút khởi thảo kịch bản này đã ở tuổi 78, mà sức khỏe thì suy giảm nhiều!
Nhà xuất bản cho in “Để đến… Nơi đến” trong Tập kịch này cũng là thuận theo nguyện vọng của những người thân trong gia đình Nhà soạn kịch Lộng Chương!

                                                                CẢNH MỘT

            Khoảng đầu Thế kỷ 21. Năm…
Vào một ngày cuối đông, thời tiết đã chuyển sang lập xuân.
Gian phòng lớn của nhà Câu lạc bộ trên đồi Trăng, xung quanh đều lắp kính; đóng kín vào mùa đông, mở rộng vào mùa hè. Tại đây, trên đồi cao nhìn cảnh trời đất lung linh như bức tranh thủy mặc. Đó là những ngọn đồi nhấp nhô được điểm trang từng đường bậc đá và các hàng cây; là những dãy cột điện truyền thanh - tiếp hình; là những ngôi nhà màu trắng màu hồng, tầng thấp tầng cao, dựa bên sườn đồi. Xa hơn, là những mỏm núi cao mờ tỏ khác nhau, là ngọn tháp nhà thờ Thiên chúa giáo, là bầu trời trong xanh, gợn mấy dải mây bông;… tạo nên một khung cảnh hài hòa, làm hưng phấn lòng người.
            Gian phòng được dọn quang bàn ghế, làm nơi tập một điệu quần vũ của thanh niên nam nữ công nhân bến cảng, chuẩn bị cho buổi lễ mừng xuân sắp tới.
            Bến cảng Lộc An ở dưới chân đồi, bên bờ sông Mã (được coi như ở phía khán giả).
            Từ cảng đi lên Câu lạc bộ bằng hai đường hai bên nách tiền diện sân khấu.
            Sát tường khung kính, một tấm rèm mỏng màu cẩm thạch, buông từ cao xuống, che gần một phần ba sân khấu; phía bên tường trống, bày mấy chậu xương rồng hình thù gai góc; bên trên treo dòng chữ CÂU LẠC BỘ.
            Phía ngoài, trên cao treo tấm biểu ngữ: MỪNG TỔNG SẢN LƯỢNG VƯỢT CHỈ TIÊU NĂM…
            Trước sân khấu: Từ góc hố nhạc vươn lên một cần cẩu màu xanh đậm; ngay sát ngoài biên là mấy cột neo tàu chạy dài (hai nét này có thể sử dụng cố định suốt vở diễn).
            Khúc nhạc khởi tấu: “Dòng sông xanh”. 
                                                                         
                                                                          MỞ MÀN

            Dàn nhạc và nhóm ca múa Câu lạc bộ là những cán bộ kỹ thuật, công nhân nông trang và bến cảng; theo nghề nghiệp mà phục trang cho thích hợp: thủy thủ, hoa tiêu, công nhân máy kéo, cần trục, nữ kiểm nghiệm viên hàng xuất và nhập…
            Dàn nhạc tấu tiếp đoạn khai từ.
            Một thanh niên, trang phục hoa tiêu tiến ra khỏi dàn đồng ca.
Hoa tiêu: (Giọng trầm vang, lĩnh xướng)
            Vấn                 Từ những thời nao, sông Mã ơi!
                                    Dòng xanh cuộn sóng nước trôi xuôi
                                    Bến xưa heo hút nay thành cảng
                                    Nghe tiếng còi reo, sông có vui?...
                                                (Lùi trở lại dàn đồng ca)
Đồng ca: (Tiếng hát dòng sông làm nền cho múa Dòng sông xanh)
                                    Dòng sông tụ hội dòng người
                                    Nước trôi in bóng cuộc đời bấy nay…
                        (Một đợt sóng xanh biếc)
            Bạch               Từ núi thẳm băng miền sóng cuộn
                                    Ngày lại ngày năm tháng trôi theo
Tiếp đồng ca:           Núi xưa vách đá cheo leo
                                    Đồi xưa mòn mỏi hắt hiu nắng vàng
                                    Đau lòng nước, võ vàng lòng đất
                                    Sống cùng nhau, khó gặp được nhau…
            (Dòng sông xanh khởi diễn: “Xuân phả” biến tấu, theo “Hò sông Mã” cải biên cho múa)
Đồng ca: (Mạnh)                             Giận hờn mặt ủ mày chau
                                                Tung bờm sông Mã phi vào biển khơi…
                        (Khoan thai)             Người ơi thấm tạ tình người
                                                Đất hoang gặp nước bởi người mà nên
                        (Tha thiết)                 Lòng sâu nước đã vượt lên
                                                Thấm vào lòng đất trao duyên mặn nồng
                        (Bừng sáng)              Đồi xưa nay đã nên đồng
                                                Sáng trưng núi biếc ánh đèn kết sao;
                                                            Bến xưa thành cảng dập dìu
                                                Bóng lồng gương nước đoàn tàu ngược xuôi…
                                                            Đổi thay từ ở tay người
                                                Đưa dòng sông với núi đồi vào xuân…
                                                            (Dòng sông lững lờ êm ả)
Tiếng hò đơn: (Hò sông Mã)
                                                Qua đông rồi mới vào xuân
                                    Đường hoa còn lắm bước chân ngập ngừng
                                                Như con sóng quẩn ngược dòng
                                    Sông trôi nước cuốn, sóng lừng trôi theo…
            (Bến trưởng, đồng phục tím, mũ lưỡi trai trắng, râu mép xén gọn, trông rất nghịch, từ cảng đi nhanh ra).
Bến trưởng: Hay lắm! Hay lắm! (Cuộc diễn tập dừng)
Mọi người: Đồng chí Bến trưởng…
Bến trưởng: Hoan hô đội hợp xướng “Dòng sông xanh”!
            (Vỗ tay. Mọi người nhảy múa theo)
            Thôi nhé. Buổi tập luyện tạm dừng! Chuyến tàu hàng đã sẵn sàng rời bến. Các đồng chí công nhân, hoa tiêu, thuyền trưởng, hãy chuẩn bị lên đường!...
Mọi người: Rõ!
            (Mọi người rút. Bến trưởng đứng nhìn theo. Bỗng tiếng kèn đồng inh ỏi điệu tập hợp. Bõ nhà thờ - thường gọi Bõ già, hoặc Ông Bõ, xuất hiện trên thềm ngoài đầu cầu thang, với chiếc kèn đồng treo trước ngực. Bõ già đầu đội mũ nồi đen, giày vải cao cổ, áo dài màu đen bạc; ngoài mặc thêm chiếc áo gi-lê cụt tay hai thân đen, khoang trắng vòng quanh cổ, nên trông như con quạ).
Bõ già: (Chắp kèn lên ngực, cung kính) Trình bề trên… chỉ huy bến…
Bến trưởng: Ông bõ già, ông muốn gặp ai? Hay ông định đi đâu?
Bõ già: Trình bề trên, tôi lùa đàn dê cung cấp xuống tàu… Bỗng nghe nhạc tấu từ Câu lạc bộ thiếu tiếng kèn đồng, nên xin vào để thổi.
Bến trưởng: Ông nói sao? Ông xin vào đội nhạc?
Bõ già: Trình bề trên… (Vỗ nhẹ chiếc kèn trên ngực) Chiếc kèn này, tôi thổi gọi đàn dê. Nhưng trước kia tôi thổi trong đội kèn nhà thờ. Những buổi lễ Đức Chúa giáng sinh, những ngày lễ rước, tôi thổi bài “Kính mừng”… (Nghiêm trang vung kèn như múa, tiến bước từ tốn quanh phòng, phùng má thổi điệu kèn lễ… Bến trưởng mỉm cười nhìn Bõ già. Vừa lúc, nữ Giám đốc Mục trường Thao cùng Viện trưởng Hảo và con gái - Phó tiến sĩ Thùy Liên, vui vẻ từ cảng đi lên.
            Thao - tóc hoa râm búi gọn sau gáy, bịt khăn len vuông màu hoa cà, áo bludông tím nhạt, quần màu hạt dẻ, đi ủng dạ ngắn.
            Hảo - tóc ánh bạc, búi cao; áo măng tô màu nâu nhạt, áo vét trong màu gạch, quần dạ ghi, giày đen thấp gót, cổ quấn thõng chiếc khăn len màu hoàng yến.
            Thùy Liên - quần len trắng ống hơi loe, áo len cổ cao màu đỏ pháo, cổ thắt nơ màu tím sáng, mũ len màu trắng, đi giày đỏ, tay xách máy quay phim nhỏ)
Bến trưởng: (Trông thấy ba người, ngăn Bõ già lại) Thôi… hãy dừng lại, ông Bõ. (Bõ già bị chặn, thổi tóe lên một tiếng kèn dài; mở to mắt thấy ba người, vội hạ kèn treo trước ngực, kính cẩn).
Bõ già: (Với Thao) Trình bề trên… bà Giám đốc Mục trường Sông Mã…
Thao: Chào ông Bõ!
Bến trưởng: (Tiến lại Hảo) Thật vinh hạnh… Chào đồng chí Viện trưởng…
Hảo: Chào anh Huy… Bến trưởng!
Bến trưởng: (Với Liên) Chào cô Thùy Liên, Phó tiến sĩ thủy điện tân khoa (Hôn tay Liên).
Thùy Liên: Ôi chú! Má con cháu với chú đâu phải là khách, mà chú quá trịnh trọng vậy? Xin chú cho được xưng hô thân mật…
Thao: Như thế tốt hơn. Chớ coi nhau là khách để phô trương bằng cấp, chức quyền…
Bến trưởng: Xin hoan nghênh ý kiến. Ý của các bà là ý của thánh thần thượng đế…
Thùy Liên: Nhất là ý kiến của cô Thao… hẳn còn hơn ý Chúa đấy, chú ạ.
Thao: A, con bé… đáo để nhỉ… (Với Bõ già) Ông Bõ hôm nay cũng đến Câu lạc bộ… thổi kèn?
Bõ già: Trình bề trên… Giám đốc! Tôi mới đến xin… Bẩm… chả là sáng nay tôi lùa dê xuống tàu, được nghe các bề trên đàn hát, làm tôi nhớ đến chiếc kèn đồng đã sao nhãng bấy nay…
Thao: Sao? Thế không phải ông thổi kèn trên núi hàng ngày?...
Bến trưởng: (Xen vào) Đó là kèn chăn dê. Còn đây là kèn thổi dâng Đức Mẹ…
Hảo: (Từ nãy vẫn nhìn Bõ già. Với Thao) Chị Thao, có phải ông già là Bõ nhà thờ hàng xứ?
Thao: Ông ta đấy!
Bõ già: (Với Hảo) Lạy Chúa tôi! Bà là cô kỹ sư Hảo ngày xưa?
Hảo: Ông còn nhận ra tôi?
Bõ già: Trình bề trên, tôi quên sao được cái đận chuyển cư… (Lại nhìn nhanh Liên). Bẩm, còn quý cô đây chắc là ái nữ? Cầu Chúa ban phước lành… quý cô lại đậu bằng tiến sĩ!
                (Thùy Liên từ nãy vẫn đứng nhìn ông Bõ chằm chằm).
Thùy Liên: (Với mẹ) Má!... Ông già này thật ngộ, nhất là lúc thổi kèn. Để con nói với ông thổi lại… Con sẽ quay phim. (Quay qua Bõ già) Ông già… Ông gì nhỉ? À, Bõ già, đúng chứ ạ?
Bõ già: Trình quý cô, Bõ là… trước kia tôi hầu Cha xứ, và giữ việc báo lễ gióng chuông…
Thùy Liên: À… Giống như “Người gù Nhà thờ Đức mẹ thủ phủ Ba Lê”. Ông có biết không, đó là tác phẩm của Văn hào Pháp Vích to Huy Gô.
Bõ già: Trình bề trên, tôi không biết ông Gô ông Gù nào cả. Mà đã từ lâu tôi không còn là Bõ.
Thùy Liên: Bây giờ ông chăn dê cho Mục Trường… kiêm làm trò thổi kèn cho Câu lạc bộ?
Bõ già: Trình quý cô, tôi không làm trò… Tôi thổi kèn thờ.
Thùy Liên: À… phải, xin lỗi ông. Thổi kèn thờ không phải là làm trò. Ông thổi kèn… hay qua!
Bõ già: (Khoái) Hề… trình bề trên… lại khen!
Thùy Liên: Ông vui lòng cho nghe thổi lại…
Bõ già: (Sung sướng, kính cẩn) Trình bề trên đã dạy, tôi không dám trái. (Trịnh trọng múa kèn, chuẩn bị thổi. Liên cũng chuẩn bị máy quay phim. Bõ già phùng má khởi động, vừa được một tiếng “omoét”, thì có tiếng gọi rất đanh dưới cổng).
Tiếng gọi: (Nữ kim cao) Ông Bõ ới!...
Bõ già: (Giật thót người, sững lại) Lạy Chúa, vợ tôi!
                                                Vợ tôi nó tìm (Lồng tiếng gọi “Ông Bõ ới!”)
                                                Vợ tôi nó gọi
                                                 Tôi đành chịu lỗi
                                                Không thổi được kèn.
                                                Trình với bề trên
                                                Thứ cho khi khác…

            (Lại tiếng gọi “Ông Bõ ới!”. Bõ hấp tấp chạy ra, đưa kèn lên mồm thổi. Từng nhịp nghe thành câu: “Tôi về… Tôi về đây!”. Xuống thang vừa khuất thì tiếng kèn ngắt quãng thành: “Te tò -Tôi về…”. Thùy Liên mới đầu ngạc nhiên, sau bật cười, đi ra trông theo. Huy cũng tiến ra với Liên).

Thùy Liên: (Quay lại nói với Huy) Lạ nhỉ! Một nghệ sĩ kèn đồng lại vô cùng sợ vợ.
Bến trưởng: Úi! Ông ta sợ vợ hơn là sợ Chúa!
Thùy Liên: (Cười, nhìn nhanh Thao. Kéo Huy ra một góc) Thế chú có sợ cô Thao không?
Bến trưởng: (Làm bộ cứng rắn) Không!
Thùy Liên: Chú giỏi thật!
Bến trưởng: Giỏi gì?... Bởi bà ấy là chồng! (Hai chú cháu cười khúc khích).
Hảo: (Từ nãy vẫn im lặng, bỗng lên tiếng) Ông Bõ giờ khác hẳn. Tôi nhớ ngày xưa… ông ta lặng lẽ như cái bóng…
Thao: Thì đúng, ngày xưa hắn chỉ là chiếc bóng lặng thinh. Còn hành động múa may là tự ở cái hình…
Hảo: Hình với bóng sao lại xa nhau được nhỉ? Hừ, một Bõ nhà thờ bỏ đi lấy vợ. Vợ ông ta là ai?
Thao: Vợ hắn là một cô mụ,
                Hiện là người vắt sữa ở mục trường.
                Hai vợ chồng cùng rời chốn thánh đường…
                Tự nguyện đi lao động để mong phần xác cùng phần hồn được cứu rỗi!
Hảo: Mới hơn hai mươi năm mà quê hương ta bao nhiêu thay đổi!
Thùy Liên: Má nói sao? Hơn hai mươi năm mà thay đổi có bấy nhiêu?
                (Hảo chưa kịp trả lời con, thì Huy đã nói).
Bến trưởng: Cháu ơi!...
                Có biết ngày xưa, mới thấy rõ ngày nay đổi khác!
                Má cháu và cô chú đây là những người lớp trước
                Đã cùng làng xóm quê hương hợp sức dựng cơ đồ
                Từ bàn tay không với lòng tin tưởng vô bờ…
                Từ người kỹ sư nông nghiệp đầu tiên (chỉ Hảo) và cũng là độc nhất
                Của quê ta khi còn là Hợp tác
                Được cử về thực tập tại xã nhà, lại gặp đúng lúc chuyển cư…
                Đến con người tiến sĩ (chỉ Liên) cũng trở lại chính quê
                Để rồi đây bắt sông Mã cấp thêm sức điện!
Hảo: Lại cả một lực lượng đông đảo công nhân, kỹ sư, thuyền trưởng…
                Đã đẩy sức sống bến sông xưa thành bến cảng thanh xuân.
                Bến này xưa ngày đêm quạnh vắng…
                Chỉ một con đò chở khách quá giang!
Bến trưởng: Chị Hảo ạ,
                Xin mời chị và cháu đi tham quan bến cảng
                Tôi sẽ trình bày kế hoạch mở rộng nay mai…
Hảo: Cảm ơn anh Huy! Má con tôi vừa từ bến cảng lên đây…
Thùy Liên: Chú ơi! Cả buổi sáng nay cô Thao đã đưa má con cháu đi thuyền buồm ngược dòng sông Mã.
Bến trưởng: Để tham quan hay đi khảo sát?
Thúy Liên: Chưa phải khảo sát dòng sông, mà là khảo sát tâm tình…
                (Vẻ mặt say sưa, từ nói đến ngâm)
                Chú ơi! Gió căng cánh buồm
                Ngược dòng sông xanh…
                Ôi! Dòng sông sao mà trong xanh
                Xanh như đồi núi lam xanh
                Xanh như lúa đồng uốn quanh
                Xanh như cỏ xanh mượt mà
                Quê hương ta thật là tuyệt đẹp!
Bến trưởng: (Cười) Cô cháu chuyên gia thủy điện của tôi lại làm thơ…
Thao: (Cũng cười) Một bài thơ màu xanh!
Thùy Liên: Cô chú ạ… Thơ là nhạc điệu tâm tình
                Tình cảm quê hương càng vô cùng sâu đậm
Thao: Cháu mới thấy vẻ đẹp của màu xanh trời đất…
                Còn cái đẹp qua các công trình
                Do lao động và cả sức đấu tranh mới có…
                (Dắt Thùy Liên đến vén tấm rèm lớn, chỉ ra ngoài. Khung cảnh thiên hiên hoành tráng hiện lên).
                Từ chân núi Eo kia, cháu đã thấy màu xanh
                Nhưng chưa thấy những sắc màu thảm cỏ sống động bên trong
                Những điểm nâu, vàng, đen, trắng, di chyển thong dong
                Của đàn bò sữa, đàn dê Mục trường Sông Mã…
                Gần núi Chẹn lớp lớp mái xây, ống cao khói tỏa
                Là những nhà máy chè, hoa quả, thịt sữa… vây quanh
                Trên núi Eo, cột tháp tiếp hình
                Với cột truyền thanh đưa tin đi khắp nẻo…
                Kia trường học cấp ba, kia khu mẫu giáo…
                Cháu có thấy chăng?
Thùy Liên: Cháu thấy chứ cô!
                Không phải bây giờ mới thấy, mà thấy từ xưa
                Từ những năm còn quàng khăn đỏ
                Rồi sáu năm cháu xa xứ sở
                Nay trở về… sự đổi thay thật quả không nhiều!
Thao: So với ngày xưa… hay so với những nơi nào?
Thùy Liên: Ngày tít xưa… thì cháu chưa biết ra sao!
Thao: Phải, cái ngày xưa cô nhắc, còn chưa có cháu
                Ngày mà má cháu còn là cô Hảo…
                (Vừa lúc, ông Kế hấp tấp xách con cá từ cảng đi lên. Râu tóc ông hoa râm, đội mũ biên phòng, áo bành tô tím bạc, ống quần đút vào ủng cao su).
Ông Kế: (Chưa đến nơi đã nói, ra bộ khẩn trương, quý hóa)
                Các vị ở đây! Các vị ở đây!
                Thế mà tôi đi tìm khắp chốn, khắp nơi… khắp… khắp…
                (Cúi chào Hảo)
                Kính chào bà Viện trưởng… Viện Nông nghiệp tỉnh ta.
                Kính chào cô Thùy Liên, một ngôi sao sáng quê nhà
                Phó tiến sĩ chuyên khoa thủy điện…
                Kính chào hai vị Giám đốc Mục trường và Bến cảng…
Thao: À ông Kế… Ông xách cá đi đâu?
Ông Kế: À vâng… (Nhưng lại quay qua Liên)
                Cô Phó tiến sĩ chưa hay… để tôi nói rõ tình đầu…
                Tôi là Kế!
                Tên là Kế nên cũng hay bày mưu tính kế…
                Hì… đó là chuyện ngày xưa!
                Còn bây giờ tôi phụ trách trại “giang ngư”
                Hì… Giang ngư là cá sông! Chả là cá cũng có nhiều loại: cá sông, cá đồng, cá bể… (Với vợ chồng Huy) Xin phép hai đồng chí Giám đốc.
                Chả là tôi được tin bà Hảo cùng ái nữ Phó tiến sĩ mới về
                Tôi chạnh nhớ đến cái ngày… xa tít xa tắp, cái ngày chuyển cả xã đi…
                Ngày mà bà Hảo còn là cô… kỹ sư thực tập!
                Ngày ấy, câu chuyện rối tinh. Tôi vốn trọng người khoa giáp…
                Nên đã đem đến mừng con cá chép câu sông…
                (Hát)
                Hì… Cá xưa biếu chẳng thực lòng
                Cá nay… thành thực đem mừng tân khoa. (Đưa cá cho Liên).
Thùy Liên: (Ngỡ ngàng, nói với mẹ)
                Má! Con không sao hiểu nữa!
                Nào chuyện chuyển cư, lại thêm chuyện cá…
                Cả chuyện đổi thay của ông Bõ nhà thờ
                Mà hình như… mọi người đều là người trong chuyện ngày xưa.
                Chuyện ra sao… hả má?
Hảo: Chính là chuyện mà cô Thao con vừa nhắc đến.
Thùy Liên: Và cô Thao là người trong chuyện?
Thao: Không, cô chỉ là người chứng kiến…
                Ngay tại ngọn đồi này… Bây giờ là đồi Câu lạc bộ “Dòng sông xanh”
                Nhưng xưa chỉ là ngọn đồi hoang trong dãy đồi Trăng…
                                                                      Màn hạ

 (*) Sách “Lộng Chương - Để đến… Nơi đến”, Nxb Sân khấu, 2013.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét