Truyện ngắn Giang Trung Học
Bà
nhìn ông không chớp. Cặp mắt sâu hoắm, chậm chạp, đờ đẫn. Ông nắm bàn
tay bà, lòng thầm xót thương. Hai người đều chưa đến tuổi già. Ông gần
sáu chục. Bà mới năm mươi hai. Nhưng khốn khổ cho bà,
vì sức lực sớm tàn. Chỉ tại cái bệnh thấp khớp nó lẩn vào tim quá
nặng. Lại thêm chứng thần kinh tọa nữa. Thành thử quanh năm thuốc
thang, mà chẳng đâu vào đâu. Đến cả năm nay không ra được khỏi nhà.
Mọi việc chợ búa, bếp núc ông gánh tất. Để bà làm, nhỡ ra thì
chẳng bõ.
Trước lúc về giường ngủ của
mình, ông nói với bà:
- Mai tôi đi sớm. Bà
ở nhà một mình vậy. Cơm nước, thuốc thang thế nào, tôi đã chuẩn bị
và nói cụ thể với bà rồi. Tôi không thể không tiếp tục kiếm việc làm thêm,
bà ạ.
Sáng hôm sau, mới hơn bốn giờ
ông đã dắt xe đạp xuống tầng. Cái túi du lịch cũ kỹ, tròn căng, treo
bên tay lái. Mọi động tác hết sức khẽ khàng, không để hàng xóm nghe
thấy tiếng động. Làm mất giấc ngủ của họ là điều chẳng nên. Hơn nữa,
ông không muốn ai biết mình đi đâu, làm gì.
Nơi ông đến cách chỗ ở gần ba
kilômét. Nó gần một xí nghiệp cơ khí đông người. Có cả vài ba cơ quan
làm việc quanh đấy. Nắng thì nép dưới tán cây bàng. Mưa
to gió cả thì vào hàng nước
ngồi cũng tạm ổn. Nơi ấy không được tốt khách, song lảnh xa chỗ
ở tiện
cho ông hơn.
Cưỡi trên cái xe đạp Mifa cũ,
ông vừa đạp vừa thầm nguyền rủa thằng con trai mất dạy, duy nhất của
mình. Cơm không muốn ăn thì ăn cứt. Đáng ra, được chỗ tựa vững chãi
của gia đình, nó phải nên người, hơn người. Đằng này, đang trên đường
quang nó quàng vào bụi rậm. Học hết lớp mười một rồi rơi vào nạn
nghiện hút. Tài sản gia đình, xe máy, tivi,... cõng đi bán hết. Nó
trở thành thân tàn ma dại. Lại dính cả việc mua bán ma tuý nữa.
Nên nó đi tù là đúng, không thể tha thứ được đâu bà ạ.
Mà cũng chẳng nên chạy vạy xin xỏ làm gì. Đành để cuộc đời dạy bảo nó
vậy. Đời không nương nhẹ ai hết. Nó nếm cảnh tù,
may ra còn cải tạo được. Ở nhà, không chết vì ma tuý thì bọn côn đồ
cũng giết chết nó bởi cảnh nợ nần. Muốn trả khoản nợ hơn năm
chục triệu đồng kia, nhà mình chỉ còn cách bán
nhà. Bán nhà rồi tôi với bà ra ở ngoài đường ư? Không thể được!... Thật chẳng
ngờ số kiếp vợ chồng ông bĩ cực đến nước này.
Ông mở túi, lấy cờ lê, mỏ lết,
tất cả những thứ gọi là dụng cụ đồ nghề, bày lên tấm vải tráng
nhựa nhàu nát. Đặt cái biển nhỏ có hàng chữ nguệch ngoạc "Bơm
vá xe đạp, xe máy" ngay bên cạnh. Ông không ngồi ệch bên mớ đồ
nghề chờ khách, như đám thợ chữa xe
lâu năm chẳng cần giấu mặt. Hai tay khoanh hờ trước ngực, ông đứng sát
cửa căn hộ còn đóng im ỉm. Nhà này, gần sáu giờ mà chưa thấy
ai cựa quậy. Hẳn không buôn bán gì. Chắc đều làm Nhà nước cả. Thế
càng may cho ông. Chứ nó mà mở quán bán hàng, đừng hòng ông đứng đây. Nơi đây
không có nể nang chiếu cố dành cho ai đâu. Tất cả đều như cá mè một lứa. Ông chép
miệng: “Ừ thì một lứa hay mấy cũng đành”. Nhưng còn cách ăn mặc thì ông cứ phải
chững
chạc. Giầy đen bóng. Cái áo bông bộ đội chính hiệu. Mũ mềm đội đầu
còn in vết quân hiệu. Ăn mặc thế mà phải
lê la kiếm tiền nơi vỉa hè xó chợ kể cũng cực thật. Một chiếc xe đạp phanh kít,
dừng trước mặt ông. Đứa trai vẫn ngồi trên xe,
ngơ ngáo hỏi:
- Ai bơm xe đây?... Ông hở? Bơm hộ
cái!
Thằng này nhiều lắm bằng tuổi
con ông. Nom thì không đến nỗi mất dạy, nhưng nói năng sao khó lọt tai. Bơm
xong, nó lẳng tờ một nghìn đồng cuộn tròn như cái sâu kèn xuống đất,
liền nhảy phốc lên xe chuồn thẳng. Thôi thì, dù sao cũng được đồng
tiền mở hàng. Đồng tiền đánh dấu công sức lao động làm thuê ở nơi
ngã ba ngã bảy này. Ông cúi nhặt tờ bạc, hờ hững vuốt cho phẳng ra, và đút vào túi áo
ngực. Tim phổi ông vẫn tốt mà nghe nhoi nhói liên hồi.
"Xoạch - oạch. Xoạch - oạch" - cánh cửa xếp phía
sau ông bung ra như giận dữ. Người
đàn bà còn khá trẻ, phấn son bự mặt, váy ngắn, lạnh lùng nhìn lướt
mặt ông rồi ngoái về phía sau giục:
-
Làm gì mà mãi không cho xe ra, hử? Có biết muộn rồi
không?
Ông hơi né mình cho cái xe
máy tiến xuống lòng đường. Là ông muốn
tỏ
cử chỉ ý tứ thôi, chứ chỗ đứng ấy không hề gây
vướng chân họ. Vẫn bộ mặt lạnh
lùng, cô nàng buông khẽ một câu chỏng lỏn: "Lại đến lượt thợ chữa xe bày bẩn!".
Tức là chỗ này từng có người
ngồi kiếm ăn. Trước đó, ông định cất lời để giành sự thông
cảm từ phía chủ nhà, nhưng bộ mặt ấy và câu nói ấy đã
xoá luôn ý nghĩ trong ông. Đã sao nào! Chẳng phải vỉa
hè của riêng họ. Cốt mình không bày bẩn, không làm vướng lối đi bộ
của mọi người.
Đít đặt lên yên xe rồi, một tay ôm bụng chồng
rồi, cô nàng còn cố ném lại câu nói như dạy bảo lẫn đe doạ:
- Ông đừng có làm bẩn cửa nhà
tôi đấy. Bẩn thỉu bề bộn… là không xong đâu!
Im lặng nhưng lòng ông đắng ngắt. Cô
ta chỉ đáng tuổi em út ông, thậm chí tuổi con ông. Không biết sống trong
gia tộc thì ăn nói thế nào. Trước mặt thủ trưởng cơ quan, chắc
cũng biết nói năng ngọt sớt. Thì mới tồn tại. Mới mong kiếm chỗ
ngồi yên ổn để có tiền trưng diện tấm thân.
Rồi,
chưa
qua sự nọ đã xọ sự kia. Đến lượt bà bán xổ số gây hấn với ông. Vừa
xuất hiện, bà xồn xồn bắt ông phải trả chỗ. Bao tháng nay
bà từng ngồi đây, tức là chỗ của bà rồi. Nghe bà nói, ông biết vậy
thôi. Kỳ thực thì, hoạ hoằn
bà
mới đến ngồi chỗ này. Để hứng người tứ xứ qua lại,
tiêu nốt số vé có khả năng tồn ế trước giờ mở thưởng. Chứ chỗ ngồi chính
của bà ở cạnh quán nước đầu ngõ đằng kia cơ. Tại đấy mới lắm khách
quen. Còn tiện để bà ghi số đề nữa. Thôi
thì bà ta đúng sai thế nào, ông chẳng cần biết. Phải cãi nhau với bà ta quả
là
bất tiện. Nên sau mấy câu trao đi đổi lại, ông đành dịch
đồ nghề của mình ra khỏi cái gốc bàng.
- Không lui, đố ông tranh được!
- Dễ bà đi kiện?
- Chẳng phải kiện! Ông từ đâu đến đây… dám thắng gái bản
xứ này hả?
- Bà cậy gần nhà?
- Gần nhà, gần chuồng thì đã
làm sao! Mà tôi bán đại lý cho nhà nước đấy nhé; còn
hơn cái nghề tự do vô chính phủ của ông, đúng không nào?
Ông cười trong bụng. Cái cười
thật đau lòng, buốt ruột. Cùng giơ mặt ra đường kiếm sống mà còn
phân biệt hơn thua. Chẳng lẽ bán thuê cái vé xổ số cho nhà nước sang hơn,
có sức mạnh hơn nghề chữa xe đạp. Hay, phải vác cái tiểu sử quá
trình phục vụ cách mạng của ta ra để tranh giành tý
chỗ ngồi bên lề đường này?... Ông cố ghìm nén tiếng thở dài.
Chẳng biết mình có tồn tại được ở đây với cái bà xổ số kia?
Thế mà chỉ lát sau, bà ta
đã
mau mồm gọi:
- Ông gì ơi, chữa xe này!
- Vâng, cảm ơn bà.
- Nắng đâu mà cứ phải núp mái hiên nhà người. Sao không
ngồi liền đây. Xấu hổ à? Hay tôi chẳng đáng để ông nói
chuyện hử? Không thích thì phới. Càng
đỡ vướng!
Giao xong chiếc xe đạp cho ông, chàng thanh niên xé
sáu cái vé số nhét vào túi sau quần bò:
-
U cho con gửi cái xe đạp đang sửa ấy nhé. Tý con trả tiền vé
số.
Miệng nói, chân bước, anh chàng
biến nhanh vào quán nước trong hẻm gần đấy.
Qua hơn tiếng đồng hồ, chiếc xe đạp cũng
đã chữa
xong mà không thấy chủ nó ra nhận. Anh chàng say sưa
gì trong ấy? Nghĩ vậy, song ông chẳng mấy để tâm. Cho đến
khi dân buôn bán vỉa hè chạy tán loạn như vịt vỡ đàn,
thì hắn vội xô ra vồ luôn xe phóng
chạy. Hắn không kịp ra, chiếc
xe chắc chắn bị cánh quản lý thị trường quẳng tất lên ô tô. Xảy
tình huống ấy, ắt ông phải gánh trách nhiệm chuộc cái xe về. Sẽ toát mồ hôi vì
nó. Lại tốn kém tiền nong nữa chứ. Tiền phạt thì ít. Tiền đút lót thì nhiều…
Thôi thế là thoát cái rắc rối này. Còn bà xổ số cũng biến rất nhanh,
nhưng chả biết có trót lọt không. Tại đây chỉ còn trơ có ông, vì
chưa biết đường ngang ngõ tắt thế nào để mà trốn chạy. Với
lại, ông còn vướng đám dụng cụ kiếm cơm lung
tung trước mặt, không thể chỉ lo có việc
thoát thân.
Hai người quản lý thị trường nghe
ông trình bày hoàn cảnh, xem ra có sự cảm thông. Có
thể còn do cách ông ăn mặc, cả cái dáng lơ ngơ, thể hiện
không phải dân vỉa hè lọc lõi, họ liền tha bổng. Nhưng
cứ bị xua đuổi thế này, không biết ngồi đâu cho yên
thân đây. Mà chỗ yên thân
thì
không thể kiếm ăn được. Đang băn khoăn, ông liền
nhận được lời rỉ tai:
- Bọn con đi rồi, bố cứ ngồi
đây.
Ông gật đầu cảm ơn. Hoá ra họ
cũng hiểu tình cảnh dân chúng. Phải phơi mặt ra vỉa hè, đều là dân
cùng quẫn cả thôi. Bỗng ông nhớ lại mấy câu ca truyền
miệng từ cái thời còn chế độ bao cấp, rằng: "Tông Đản
dành riêng vua quan/ Nhà thờ cho giới trung gian nịnh thần/ Đồng Xuân
nơi ấy thương nhân/ Vỉa hè là của nhân dân anh hùng." (Tức là: Sản
phẩm tại cửa hàng Tông Đản chỉ bán cho cán bộ cao cấp; cửa hàng trước Nhà
Thờ lớn dành cho hạng trung cấp; tranh
giành nơi chợ Đồng Xuân là đám thương nhân; còn đông đảo dân
nghèo thì kiếm sống nơi xó chợ vỉa hè). Lời
ca khiến không ít vị tai to mặt lớn bực mình. Nghe nói còn có vị lớn tiếng
quát: Bắt giam ngay thằng nào đã viết bài này! Kể cũng lạ. Người ta dám định
ra chính sách chế độ bao cấp, lại cả gan để nó tồn
tại dài mấy chục năm, sao ái ngại mấy câu ca xuất xứ từ
thực tế ấy. Phải chăng họ sợ? Sợ bài ca như là sự lên án xã hội; mà xã hội này từ
khi ra đời, nó từng ra rả tuyên án với mọi bất công áp
bức. Thế mà gần hết đời người, ông đã ngưỡng mộ và tin tưởng
tuyệt đối rằng: Sẽ có một xã hội đẹp tuyệt vời dành
cho tất cả mọi người! Và vì thế ông giốc lòng xây dựng nó, không tiếc máu
xương. Kết cục, ông đã nhầm to. Nếu không trải nghiệm
những đêm đêm làm anh gác cổng, làm thằng coi cá, và bây giờ thì… bơm vá xe bên
lề đường, có lẽ ông không dễ gì gạt bỏ mớ nhận thức sai lầm
nhưng tràn đầy lãng mạn ấy ra khỏi đầu mình. Ông thầm cười bởi sự ngớ ngẩn ngu
lâu ở mình. Làm đếch gì có cái xã hội làm theo năng lực, hưởng theo
nhu cầu. Xã hội nào mà chẳng có kẻ giàu người
nghèo, ông chủ và kẻ làm thuê, người ngự biệt thự sang trọng và kẻ vạ vật nơi lề
đường xó chợ…
Hôm
nay, bên lề đường này có thêm ông. Và sẽ
còn thêm những ai ai nữa? Ông tiếp tục đợi khách để kiếm ăn.
Sao cái anh chàng nhờ chữa xe đạp vẫn chưa trở
lại trả tiền cho ông. Nếu bị hắn quỵt,
chắc chắn ông lõm to. Bởi số tiền lời cả buổi sáng nay không bù nổi vốn mua mấy
loại phụ tùng mà ông đã thay cho xe hắn. Ông sẽ nhờ bà xổ
số đòi hộ. Chẳng biết có xong không? Vừa
toan
xếp đồ nghề để ghé vào quán cơm bụi bên kia đường, thì chị bán rong
hạ cái thúng ngay bên cạnh ông, giọng mời rẻo quẹo:
- Mời anh bác xơi trưa với em
nào. Bánh chưng, bánh nếp, bánh mỳ giò chả, đủ loại nào. Vừa rẻ,
vừa ngon, vừa ròn, vừa thơm nào. Ăn một lại muốn
ăn hai… Ăn rồi hẹn đến ngày mai… mong hoài nào!
Cũng là để cho tiện bữa, lại
khỏi phải thu dọn đồ nghề, ông mua luôn
ổ
bánh mì kẹp chả -
hai nghìn đồng. Ngồi khuất bên gốc bàng, ăn ù
là xong. Rồi uống chén nước của
bà lão bán rong nữa. Thật tiện. Thôi thì, cảnh nào cũng
cần thích ứng. Không thích ứng, dễ đầu hàng ư? Hàng tức là
chịu thua, chịu chết. Mình đã dám chiềng mặt ra vỉa hè thì cứ phải
kiên
trì. Chỉ thương bà ấy không có ai lo liệu
cơm
nước. Nhưng đơn giản thôi. Bật "cách" cái bếp ga, mấy phút là nồi cháo sôi ấy
mà. Chịu khó bà ạ. Chiều tối tôi về… Vậy mà mãi tối mịt ông mới đẩy được
cái
xe lên căn hộ ở tầng ba, thuộc khu tập thể quân đội. Tuy gọi thế, song
cư trú tại đây toàn dân tứ chiếng cả. Có căn hộ đã trao đi bán lại
đến mấy lần rồi.
Xa nhau từ sáng sớm đến
giờ, lúc này có sự gì, ông bà thổ lộ hết. Bà thương
ông nắng gió vạ vật, lại như cái thời
trai trẻ. Ông bảo sức mình còn khoẻ,
nên cần tranh thủ kiếm thêm chút tiền để mà thuốc
thang lúc già yếu. Còn cái
khoản nợ do thằng con gây nên, vì nó quá lớn nên đành tính sau vậy. Hơn năm chục triệu
đồng, bằng nửa căn hộ gia đình ông đang ở đấy!
Ông móc nắm tiền trong
túi áo ra đếm trước mặt bà:
- Cả ngày được đúng mười nghìn.
Ấy là đã trừ tiền
ăn
uống rồi. Ngày đầu, thế cũng tốt. Quen khách
quen việc, chắc khá hơn bà nhỉ?
*
* *
Thời gian đầu, ông ngồi
vỉa hè một mạch từ sớm đến tối. Nay, buổi trưa ông cố về nhà. Cốt
để động viên bà ấy - ông nghĩ thế. Với lại, cái túi đồ nghề đã
có chỗ gửi tin cẩn, ông không phải xe đi xe về nữa.
Như vậy vừa đỡ vất vả, lại bớt được sự săm soi bàn tán của xóm giềng. Đành rằng ông bỏ
sức ra kiếm tiền, chứ có đi ăn cắp đâu mà
lo. Thế nhưng, trước con mắt và câu nói của người đời chĩa vào mình, cũng ái
ngại lắm. Dù sao mình đã từng là anh cán bộ cao cấp một thời.
Cán bộ cao cấp về hưu mà phải làm cái nghề hạ đẳng thì sái chứ lỵ… Để củng cố
quyết tâm theo nghề, đã nhiều lần ông xắm vai phản biện với hàng loạt câu hỏi
được đặt ra. Và ông - vai trò chủ nhân - đã dễ dàng vượt qua tất cả; trừ vấn đề
“lao động là vẻ vang”. vẫn còn vương vướng. Thế mà xưa kia đứng trên bục giảng,
ông cứ trơn miệng nói rằng: Lao động là vẻ vang. Dù ở cương vị công tác nào mà
hoàn thành tốt cũng đều vẻ vang như nhau cả. Khi đó, hàng trăm sĩ quan cấp dưới
ông chỉ biết lắng nghe, công nhận; chứ chẳng ai được quyền phản biện phản đối
cái nội dung do cấp trên biên soạn sẵn ấy. Phía ông được đánh giá là đã hoàn
thành tốt nhiệm vụ truyền đạt - cũng tức là đã hoàn thành công việc một cách vẻ
vang(!) Chỉ một lời khen mà lòng dạ ông lâng lâng sảng khoái. Còn bây giờ… Bây
giờ ông đang cặm cụi kiếm sống bằng cái nghề bơm vá - thứ việc làm quá cần cho một
thành phố vô địch thế giới về số xe đạp ngược xuôi chen lấn đường - mà sao ông
chẳng mảy may cảm nhận chút vẻ vang nào. Như vậy là sao? Lao động có đúng là vẻ
vang? Hay chỉ là hành động bắt buộc để cho con người tồn tại. Hay còn là xảo
ngữ nhằm mê hoặc quần chúng lao vào một mục đích chính trị nào đó. Và, nếu quả
thực lao động có là vẻ vang, thì vẻ vang cũng không dành cho những kẻ làm thứ
nghề mà người đời từng gọi nó là nghề mạt hạng!... Nghĩ thế nên ông thở dài,
như để hắt nỗi buồn ra khỏi cơ thể. Để tiếp tục cũng cổ quyết tâm theo nghề.
Thấy ông về trưa, bà
vơi bớt phần áy náy lo chồng vất vả. Được ngả lưng ít phút cũng dãn
gân dãn cốt. Tham tiền tham bạc chẳng để làm gì, ông
ạ! Nhưng, cái nghề này phải chịu khó ngồi - ông nói. Mỗi ngày chữa xe cũng được vài ba chục nghìn đồng. Hơn đứt những việc làm
thuê trước kia.
Việc
đầu
tiên ông nhận gác đêm cho một cơ quan. Xin
cái chân coi nhà đâu có dễ. Phải cậy cục nhờ vả qua
mấy cầu mới giành được đấy. Xem
lý
lịch, người ta gật rồi, song còn e tuổi ông cao không kham nổi.
Nhưng khi nhận mặt, ông được khen:
"Bác khoẻ khoắn, tinh nhanh thế này,
thật tuyệt. Đọc tuổi trong hồ sơ tưởng già yếu lắm”. Câu
nói làm cho ông vui hẳn lên. Cuối chiều hôm sau ông nhận bàn giao và vào
việc luôn. Gác một đêm, nghỉ một đêm. Lại không nhất thiết phải thức
trắng. Cơ quan này kín cổng cao tường, biệt lập với nhà dân. Kẻ trộm tài
thánh cũng không dễ lọt vào được. Dù
đã
leo qua hàng rào cũng khó bề phá mấy lần cửa
trong cửa ngoài, mà theo quy định phải cài đóng chu
đáo khi hết giờ làm việc. "Họ thuê ta đến ngủ để ăn tiền đây!".
Ông đùa vậy thôi, chứ mất gì, có è cổ ra mà đền. Được cái ông ít
ngủ và thính giấc lắm. Khẽ có tiếng động là thức dậy ngay. Từ
trẻ đã quen thế rồi.
Thế rồi… một sự cố xảy
ra đúng vào cái đêm ông gác. Mưa to và giông thốc
tháo cả tiếng đồng hồ. Cây cối uốn vặn răng rắc, ngả nghiêng. Sáng
hôm sau, vào giờ làm việc, mọi
người mới phát hiện mất một bộ vi tính, cả máy in
lazer đời mới nhất. Thì ra kẻ trộm đã leo lên
thân cây đổ, bẻ chấn song cửa thông gió nhà vệ sinh, lọt vào. Xác
định hiện trường, ông thấy mình sơ xuất đáng trách. Lúc biết ngọn cây
đổ ngả vào tường phía sau nhà cơ quan, không gây sự cố nguy hiểm, nên ông
yên trí bỏ qua. Theo nguyên tắc, ông phải đền toàn bộ giá trị tài
sản. Như vậy, hai năm rưỡi ông làm việc không công. Nhưng xét nhiều
mặt, cơ quan đã chiếu cố ông, chỉ bắt đền khoản tiền nhỏ với ý
nghĩa nhắc nhở đề cao trách nhiệm thôi.
Mấy
tháng sau, cơ quan này thay đổi người đứng đầu.
Liền đó là một ê kíp mới được dựng lên. Ông nhận thông báo nghỉ
việc. Tiếc. Mà đành chịu. Vì biết chắc cái thời buổi mật
ít ruồi nhiều này, kiếm việc làm đâu có đơn giản
dễ dàng. Bọn trẻ còn đang thất nghiệp hàng đống hàng mớ kia. Nhiều
người cầm bằng kỹ sư, bác sĩ... nhưng không có chỗ hành nghề,
phải làm các việc linh tinh lang tang để sống. Tình trạng này ai ai cũng biết. Kêu
gào khắc phục mãi, vẫn không ăn thua. Nhà
trường cứ đào tạo. Đào tạo càng
nhiều, người dạy càng có chỗ dựa vững chắc để kiếm ăn.
Phía người học thì, ai có tiền có
sức
cứ học. Học xong, kiếm việc ở đâu, làm gì,
mặc họ. Sinh ra lãng phí đơn, lãng phí kép. Không
chỉ hại tiền bạc của nhà nước. Hại cả
túi tiền của ngàn vạn gia đình. Suy đến cùng, thiệt
hại
của nhà nước cũng tức là thiệt
hại
của người dân. Vậy là, mọi gánh nặng gánh nhẹ đều
đổ hết lên đầu dân. Vì sao xảy tình trạng này? Có
phải do trình độ yếu kém của những người gánh trách nhiệm điều hành vĩ mô trong
ngành giáo dục đào tạo? Hay chẳng lẽ là sự vô trách nhiệm tới mức chỉ cần: Tiền
- thày bỏ túi, (còn) sống chết mặc bay(!?)
Đang lúc băn khoăn vì mất việc, thì
có người bạn mách ông nơi xin việc. Vẫn là việc đi
gác. Gác cá cho một cô trong ngành thuỷ sản. Ông và chồng cô ta thay
nhau thức thức ngủ ngủ, từ bảy giờ tối hôm trước đến bảy giờ sáng
hôm sau. Cái hồ dài rộng, nên không thể cứ ngồi một chỗ. Phải đi lại
luôn luôn. Không thế, kẻ gian nó bắt hết cá bằng đủ các
kiểu, cổ truyền, hiện đại. Kể ra, gác cá khi trời tạnh ráo cũng
hay.
Nhìn trời sao, sóng nước, nên thơ lắm chứ. Và lắng nghe tiếng cá ăn đêm,
vừa lạ vừa vui tai. Nhưng lúc mưa gió thì thật khổ. Cái lều bạt không
đủ che chắn nước mưa. Đã vậy, đồng công lại thấp. Cả tháng liên tục
thức, không
bằng tiền gác cách đêm cho cơ quan trước. Rồi ông bỏ hẳn việc
sau
cái đêm chồng cô ta uống rượu, ngủ tịt đi vào giờ canh. Nghe cô ta
chửi chồng như chửi cả ông:
- Nốc cho lắm vào để mà ngủ
chỏng cu lên với nhau. Hai thằng đàn ông coi giữ, mất vẫn hoàn mất!
Những chuyện đi gác thuê và hoàn
cảnh riêng, ông vừa cắm cúi chữa vội cái xe đạp, vừa
kể vắn tắt với Tần - người đồng đội còn đang mặc quân phục, mang hàm
thượng tá - khi hai người bất chợt nhận ra nhau.
- Thế sao anh không chọn nghề gì
cho nhàn hạ, mà lại ra đây ngồi chữa xe?
- Có biết nghề gì mà kén với
chả chọn. Đã tính cả việc đạp xích lô kia. Tránh xích lô thì chỉ có nghề này. Đành
phải phơi mặt trước nắng mưa. Lúc mới cũng ngượng lắm. Giấu cả hàng
xóm đấy.
- Tôi thì tôi không chọn nghề
này. Ngượng thật chứ lỵ!
- Anh bố trí tôi làm việc gì cho
công ty anh được không?
- Để tôi xem có việc gì phù
hợp với khả năng anh đã.
Công ty của
bạn ông rất nhiều việc. Năm trăm lao động đủ làm quanh năm. Còn thường
xuyên san việc cho đơn vị khác. Vậy mà Tần không biết bố trí
việc gì cho ông. Việc gì cũng cần đến chuyên môn kinh tế - kỹ thuật
cả. Xem ra chỉ có chân gác cổng phù hợp với ông.
Nhưng kín chỗ cả rồi. Mấy suất gác đều do người nhà anh em trong
công ty đảm nhiệm, nên không nỡ để ai
nghỉ. Thương ông mà đành chịu bó tay. Giá ông có cái
bằng kỹ thuật hay kinh tế thì khối chỗ ngồi
ung dung.
Mấy ngày sau, viên
thượng
tá - Giám đốc Công ty Sản xuất và
Thương
mại trao đổi lại với ông những vướng mắc ấy.
-
Tưởng cái phân xưởng gốm sứ thì có việc không cần đến chuyên môn kỹ
thuật? – ông nói.
- Cần hết. Có vài khâu thủ công
rất vất vả, như nắm than, chẻ củi… anh không nên làm.
Quần quật cả ngày mà thu nhập rất
thấp. Nghề ấy, chỉ phù hợp với cánh thanh niên
nông thôn đói việc thôi. Mà ít tháng
nữa, chúng tôi áp dụng công nghệ tiên tiến, đưa khí ga vào nung đốt,
thì việc nắm than chẻ củi cũng không còn.
- Thì đành yên vị với cái nghề
bơm vá này… Nghề này chắc còn lâu lâu…
Ông nói vậy, song trong lòng thật
buồn. Chẳng phải ông trách bạn bè không cho nhờ cậy. Mà tự
trách mình không sớm biết lo xa. Đúng hơn là, ông đã tính nhầm.
Sau khi chiến tranh kết thúc,
khói bụi còn vương trên quần áo, tất cả sĩ quan đơn vị
ông, ai có nguyện vọng học hành đều được nghiên cứu sắp xếp. Học
xong cấp ba thì cử vào đại học. Chưa
đủ tiêu chuẩn thì bồi dưỡng thêm, để sẽ vào đại học. Và còn mấy lớp trung cấp kỹ
thuật cũng được mở ra. "Chỉ những
người lính từng xông pha chiến trận mới có quyền hưởng
chính sách ưu tiên này. Để các đồng chí tiếp tục trở thành người đi
tiên phong trên mặt trận xây dựng lại đất nước!" - nếu ông hưởng ứng
lời kêu gọi ấy của sư đoàn, hẳn đã có cái bằng đại
học như Tần, như hàng trăm anh em cùng thời trong đơn vị. Thì bây giờ,
dù hoàn cảnh riêng khó khăn đến đâu, ông cũng không đến nỗi phải ra
ngồi lê vỉa hè - nơi mà chính ông từng một thời nhìn bằng cặp
mắt khinh thường.
Sao mấy chục năm trước đây ông
không đi học? Tuổi ba mươi, học hành
cũng
ngại. Quân đội thôi dùng thì về nhà với vợ con. Làm gì chẳng sống
được. Ông nghĩ đơn giản thế thôi. Mà cuộc đời ông
sau chiến tranh cũng có một chặng dài diễn ra thật
đơn
giản. Ông làm trợ lý chính trị ở quân đoàn bộ,
ngự tại trung tâm một thành phố lớn. Điều kiện sinh hoạt vật chất - tinh
thần khá ung dung. Đi đâu có ô tô ngồi, chẳng mấy vất vả. Quanh năm nắng
không xói mặt, mưa không rơi đầu ông. Hàm tước thì cứ chiếu quy định
mà thăng tiến. Chủ yếu là đủ niên hạn. Ba năm lên bậc đối với hệ
sơ cấp; trung - cao cấp thì bốn - năm năm. Hễ không mắc
tội, đủ niên hạn là lên. Thêm mỗi ngôi sao trên
vai ông, nó tựa như tăng một bậc lương công
chức trong các cơ quan hành chính sự nghiệp ngoài
quân đội vậy. Nhưng xem ra oai phong lắm
lắm. Còn trình độ thế nào, thật khó đánh giá. Xét
chi ly thì, không ít anh đeo lon cấp cao, nhưng trình độ thực chỉ ở mức sơ cấp
mà thôi. Tuy vậy, người trên kẻ dưới, chẳng ai rành rẽ bới móc nhau để làm gì.
Dễ người thì dễ ta. Nên tất cả những ai đang hiện diện đều đủ năng lực hoàn
thành nhiệm vụ được giao phó. Trong
quân đoàn không ít người giống như ông, chẳng cần theo học một
chương trình chính quy nào, đời vẫn thăng tiến êm xuôi. Bám quân đội đến
độ tuổi bốn nhăm - năm mươi, lúc ra quân, anh nào cũng
thuộc hàng cán bộ cao cấp cả. Nhưng ông không nhất trí
với một số người bảo là, họ được hưởng lộc trời cho. Và
ông kịch liệt phản đối thứ quan niệm cho rằng: Thăng tướng thăng tá ào ào là sự
chia chác “quả thực”, nhằm tập hợp lực lượng gìn giữ lợi ích của một nhóm
người.
Chặng đời đơn giản và êm xuôi ông đã
trải là như thế đấy!
Ông nghĩ mình có thể ung dung an hưởng
cuộc sống đơn giản và êm xuôi đến hết đời, hóa ra
không. Bà ấy dù có yếu đau thì cảnh nhà cũng
chẳng đến nỗi nào, nếu thằng con ông không hư hỏng. Không kiếm nổi
cái bằng đại học, nó chỉ cần làm thợ
cũng đủ nuôi thân. Thì ông chẳng phải đày đọa tấm thân khi
sắp về già. Gọ gẵng bằng đồng lương hưu, vợ chồng cũng đủ đùm bọc nhau.
Chỉ tại thằng con ông. Nó đã phá nát cái nhà này. Nên bây giờ ông phải phơi
thân nơi đầu đường xó chợ. Bất chợt, ông nhớ về cái thời bé tý, hồi Hà
Nội còn bị Pháp chiếm, trước năm Bốn nhăm (1945). Khi ấy ông đã phải
theo bố ra ngồi vỉa hè kiếm ăn…
Mải suy tư, ông không
biết có khách hàng đã đẩy cái xe máy đến kề bên.
- Ông già! Ngủ gật à? Chắc hôm qua yêu
mến bà cháu quá sức hở? Xem cho cháu cái bánh trước xì hơi ở chỗ
nào!
Khi
ông đang giúi cái săm xe máy vào chậu nước để kiểm tra thì, cảnh sát ùa đến dẹp
vỉa hè. Hết quản lý thị trường dẹp, lại đến cảnh sát dẹp.
Hiếm có ngày không bị dẹp. Dẹp. Chạy. Lại
dẹp. Lại chạy. Không nhanh chân nhanh tay chạy, hàng họ bị tống lên xe công vụ
coi như mất trắng. Ai chống đối sẽ bị điệu về đồn công
an chờ phân xử. Cuộc sống khắc nghiệt là thế,
song đám dân nghèo lấy vỉa hè xó chợ làm nơi sinh sống không thể từ bỏ. Kết cục
là, người dân nghèo càng thêm khổ. Phía nhà nước thì quanh
năm đổ công đổ của cho cái chủ trương sạch quang vỉa hè, để rồi chỉ gặt hái
được những con số không và sự oán giận từ phía
người dân. Ai ai cũng biết kết quả là như thế. Cả những người
thừa hành công vụ cũng biết thế. Mà sao không có cách nào khác để cải thiện
thực trạng này. Do bế tắc thực sự, hay là thái độ vô
trách nhiệm của số người giữ quyền hoạch định chủ trương? Hay gì gì
khác?...
Bỗng
một
tiếng quát khô sắc, chói tai, ném đến từ xa, cắt đứt dòng
suy nghĩ trong ông:
- Ông chữa xe, sao không biến?
- ...
- To gan! Dám ngồi ì hở!
Đang dỡ
cái xe ra thế này, muốn chạy cũng chẳng được. Và,
ông
chưa kịp đứng lên thưa gửi lý do, đã nghe
tiếng quát ngay bên:
- Cho kiểm tra giấy tờ!
- Giấy gì cơ ạ? - ông từ tốn
hỏi lại.
- Giấy hành nghề!
- Dạ, nghề này không có thứ
giấy ấy.
- Thì giấy gì cũng được! Xem
ông ở đâu đến đây? Ông có biết quy định cấm ngồi vỉa hè không?
Mồm hỏi nhưng viên trung uý cảnh
sát vẫn nhìn đi đằng nào ấy, như không chút bận
tâm đến cái lệnh soát xét mình vừa buông ra. Còn ông phải lần tận túi
áo sơ mi, bên trong mấy tầng áo chống rét, mới lôi được nắm giấy tờ
ra. Ông chọn một thứ đưa trình.
Viên cảnh sát chưa xem cụ thể
đã hỏi:
- Giấy gì thế này?... Chứng
minh thư quân nhân à? Làm gì còn giá trị!... Đại tá cơ à? Đại tá sao
phải ra ngồi vỉa hè?
Câu hỏi như mũi dao đâm
trúng tim, khiến ông đau quặn. Nỗi đau, xét cho cùng không chỉ tại thằng con
ông gây ra. Còn bởi tại ông!
(*) Đăng tại Chuyện đời 2, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2004
(*) Newvietart,...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét