GS Hà Văn Cầu
Hơn cả một lời "bạt", với
tấm lòng yêu quí người Anh rất ruột thịt của mình, - không còn cơ hội nào hơn -
tôi xin phép các vị độc giả yêu quí, ở đây, được nói lên đôi điều hiểu biết về
con người và tác phẩm của anh.
Trước hết, tôi cứ nghĩ mãi về cái
bút hiệu Lộng Chương. Sao lại là Lộng Chương?
Sách xưa nói: "Nam giả Lộng
Chương, nữ giả Lộng Ngọc", ý nói con trai thì chơi văn vẻ, con gái thì
chơi đồ "trang sức bằng ngọc". Vậy thì khi đặt bút hiệu, anh muốn tự
thực hiện tính cách nam nhi của anh về mặt thực thể hay nhấn mạnh hoạt động của
anh về mặt thi dụng? Hay cả hai, nói theo người xưa, "nam là thể, chương
là dụng”?
Anh vốn là nhà điều chế hóa học
(priparatun - chimiste) tòng sự tại Phủ Toàn quyền, nhưng có lẽ do cái nợ văn
chương từ kiếp trước, anh đã phải chơi nghiệp văn chương từ rất sớm.
Nhưng đâu chỉ dừng ở văn chương. Anh còn là nhà hoạt động xã hội và nhà kinh thương giỏi mà ít ai biết. Chẳng thế mà khi cha anh mất sớm, anh phải gánh vác một gia đình đông đảo các em từ khi chưa đến tuổi 30. Phải chăng khi đặt bút hiệu, ngoài việc văn chương, anh đã hoàn toàn ý thức về phong cách nam nhi của mình.
Nhưng đâu chỉ dừng ở văn chương. Anh còn là nhà hoạt động xã hội và nhà kinh thương giỏi mà ít ai biết. Chẳng thế mà khi cha anh mất sớm, anh phải gánh vác một gia đình đông đảo các em từ khi chưa đến tuổi 30. Phải chăng khi đặt bút hiệu, ngoài việc văn chương, anh đã hoàn toàn ý thức về phong cách nam nhi của mình.
Tôi quen biết anh đã gần nửa thế kỷ,
thế mà mỗi năm lại thêm một lần phát hiện cái chất nam nhi ấy của anh.
Chàng trai Hàng Bạc này sinh ra
trong một gia đình phong kiến gốc Châu Khê (Hải Dương) đang tư sản hóa ở Hà Nội, cho nên, tuy anh không theo
đòi Hán học, chất phong kiến tư sản vẫn cứ thấm sâu vào tâm thức anh. Nếu không
có Cách mạng tháng Tám, có lẽ lúc này, anh đã trở thành chủ nhân của nhiều tòa
cao ốc ớ kinh địa Thăng Long
rồi.
Tính
chất nam nhi không chịu khuất phục hoàn cảnh đã dẫn dắt tất cả tám anh chị em
anh đi theo cách mạng: ba vị trưởng Ty Văn hóa, hai cán bộ văn hóa, trừ anh ra,
còn lại là bộ đội và công an.
Luôn luôn anh giữ cái nết tốt:
"Ninh vi kê thủ, vô vi ngưu hậu" (thà làm đầu gà, hơn làm đuôi trâu),
luôn luôn vượt lên hoàn cảnh, khắc phục hoàn cảnh, để giành lấy thắng lợi. Ở đâu, anh cũng giữ vai
"đầu trò". Từ một cuộc đi chơi phiếm, một buổi nhậu cho đến một đợt
công tác, anh đều tranh lấy phần "chủ chi", không để một ai phải bận
tâm. Viết chung với anh, anh nhường phần nhuận bút cho bạn. Anh sửa vở cho các
tác giả trẻ, không kể công, cũng chẳng đứng tên.
Tôi nhớ những năm 1950, theo chủ
trương chung, tất cả các Liên khu đều thực hiện "giảm chính". Chúng
tôi nằm trong con số giảm chính đó. Chúng tôi không biết buôn bán, không biết
cày cuốc, chỉ cần qua đò Chi Nê là đã sang vùng giáp ranh để vào cố đô Hà Nội,
nhưng không ai muốn "dinh tê". Phải tìm cách ở lại với kháng
chiến. Anh đứng ra tập hợp chúng tôi lại, kéo chúng tôi về phía sau núi Phượng,
rừng Thông ở làng Sơn
Viện, nhà cụ Phái (mà chúng tôi gọi là vùng Sơn Hậu). Anh chạy vạy, lo cho chúng
tôi ngày hai bữa cơm mọn, gạo xoàng và vài con cá mắm khô cho qua ngày tháng. Anh
nói: Phải ở gần người "quê hương" (ý nói bà con thành thị tản
cư) thì mới có đất dụng võ.
Đúng thật! Anh tổ chức cho chúng tôi
dạy học. Thế là dần dần học sinh khá đông. Khi ấy, tôi bị sốt rét rừng nặng,
sốt đến phát sảng. Chủ nhà sợ tôi chết. Để làm yên lòng cụ Phái, anh mò ra Sở Y
tế Liên khu III, tìm gặp bằng được bác sĩ Phạm Hữu Chương để đề nghị chữa cho
tôi (lúc đó, một viên kinacrin là rất quí). Tôi mở đầu lời bạt bằng cách gọi
anh là người anh “rất ruột thịt” là từ những chuyện đó.
Anh vốn là người năng động lại không
chịu bó tay trước hoàn cảnh, cho nên
khi chúng tôi vừa đứng chân được ở Sơn
Viện anh đã bàn: "Chúng mình phải đánh giặc bằng nghệ thuật, chẳng lẽ cứ nằm
mãi ở đây để gõ đầu trẻ sao?”.
Chúng tôi nêu ra bao nhiêu là khó khăn: Không có phông màn, không có phục
trang, không có tiền làm bố cảnh, lại toàn đàn ông với nhau, không có nữ diễn
viên thì làm thế nào (lúc ấy, con gái còn e dè, rất hiếm người dám bước lên sân
khấu, đóng “vợ chồng" với người khác). Anh chỉ vào đầu:
“Phải có coups de tête chứ".
Anh xách cái túi
đi ra rừng Thông, ngày hai buổi liền trong một tuần. Thanh niên thị trấn như
các anh Viềng, anh Ngạn, anh Thuấn, các chị Phương, chị Sĩ, chị Tâm đều xung
phong tham gia ban tổ chức. Anh còn vận động được một gia đình Hà Nội cho con
gái đến tập kịch với chúng tôi. Thật quí như vàng. Anh lại đứng ra vay tiền và
mượn đồ đạc để có một số tối diễn huy hoàng trong bom dạn. Tết năm đó, chúng tôi
ra quân thật khí thế. Các anh Lê Quốc Lộc, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Văn Xuân, Mai
Văn Nam lo việc trang trí. Các bạn Phương, Sĩ may phông màn. Hai sinh viên sau
này đều là bác sĩ. Các anh Lê Mỹ và Đặng Hương Khánh tích cực "xin"
một chân nhắc vở. Còn
chúng tôi viết kịch và dựng kịch. Ngày chúng tôi tổng duyệt, anh chị em văn nghệ
sĩ có mặt ở Thanh Hóa
đều đến chia vui, mừng đến rơi nước mắt. Chúng tôi mổ lợn để chào mừng các anh,
các chị và các Mạnh Thường Quân.
Tổng kết hai
đợt biểu diễn ở Rừng Thông và
Cầu Bố, sau khi thanh toán nợ nần, chúng tôi trang bị được đầy đủ phông màn, áo
vải sơn che mưa (lúc ấy chưa có nilông), đèn măng sông và mỗi người một bộ đồng
phục. Công lớn thuộc về anh.
Sau này, một số
anh em ở lại với trường, tiếp
tục dạy học. Một số trở về Liên khu III, đó là các anh Lộng Chương, Việt Hồ, Hoàng
Linh, Phùng Thái và tôi. Còn cô bạn diễn yếu sức quá, gia đình không cho đi.
Hôm diễn ở hang Na, anh Lê
Thanh Nghị đến xem, cười rạng rỡ”: "Thế là Liên khu ta có một đoàn văn
công mà tổ chức không tốn một xu nào!". Rồi anh giữ chúng tôi lại để phục
vụ chiến trường Tây Bắc, sau đó đi chiến trường Điện Biên Phủ.
Chi hội Văn nghệ Liên khu III (Thanh Hóa - 1950) Lộng Chương đứng thứ hai trái sang |
Thế là đoàn
chúng tôi đã đủ mạnh để có thể diễn cả vở ngắn lẫn vở dài. Rồi cần hát sô lô thì
có: Trần Hoàn và Phùng Văn Thái... lúc nào cũng sẵn sàng cái ghi ta.
Rất nhiều
chuyện từ nhỏ đến lớn về anh để có thể khái quát lại: Anh Lộng Chương là một
con người hào hoa, kiêm ái, luôn luôn có tác phong gương mẫu như một chính ủy,
mặc dầu anh chưa bao giờ làm chính ủy. Tôi thường được nghe ông A, ông B thuyết
giảng là phải thương yêu đồng chí mà chẳng bao giờ thấy các ông ấy quan tâm đến
đời sống của chúng tôi. Còn anh Lộng Chương thì biết rất rõ từng ngày, từng
tháng của chúng tôi qua đi như thế nào; biết con cái chúng tôi, thằng Mít, thằng
Soài đứa nào học hành, công tác, dựng vợ gả chồng ra sao. Anh thật sự nhường
cơm, xẻ áo, theo nghĩa đen, và thật sự "lo cái lo, mừng cái mừng" của
chúng tôi một cách tự nhiên như ăn cơm, uống nước, không cần người ngoài cuộc
biết đến.
Người trong và
ngoài giới sân khấu chỉ biết anh là nhà viết kịch chứ không mấy ai biết anh là
nhà hoạt động sân khấu. Tôi nói "nhà hoạt động sân khấu" vì anh là
người đã góp công đào tạo diễn viên và dựng nên nhiều đoàn sân khấu từ con số
0. Đoàn chèo Cổ Phong (sau này là chèo Hà Tây) chẳng hạn. Rồi Đoàn kịch Thanh
niên Hà Nội, Đoàn kịch Công nhân Hà Nội, Đoàn kịch Thanh Hóa, Đoàn chèo Nam Hà v.v...
NVK Lộng Chương gặp gỡ bạn cùng hoạt động Liên khu III |
Anh lại trực
tiếp đạo diễn nhiều vở: Xúy Vân (của Nam Hà), Nắng (của Hà Bắc);
dựng kịch cho Thái Bình, Thanh Hóa; dựng chèo cho Hải Phòng, Hải Hưng, Hà Bắc, Hoàng
Liên Sơn... mà lâu ngày tôi quên mất tên vở.
Như vậy, đã có thể coi anh là một trong những ông trùm lão thành của
làng sân khấu hay chưa? Nhiều người chỉ biết anh là tác giả của nhiều vở kịch dài
hơi, nhưng mấy ai biết anh còn là tác giả của rất nhiều kịch ngắn. Ngoài những
vở ngắn - vừa như Lý Thới, Hỏi vợ, Người nữ tự vệ áo trắng, Úng... anh
còn viết rất nhiều vở truyền thanh, đảm bảo cho chương trình binh vận hàng tuần
trên làn sóng Tiếng nói Việt Nam, mà anh gọi là kịch tương thanh: chỉ
hai nhân vật và không quá 25 phút. Anh động viên tôi viết, nhưng cố lắm, tôi
cũng chỉ góp được một vở "Quẻ bói
cuối cùng”. Thế mà, hầu như tuần nào anh cũng có góp phần. Bây
giờ, ngồi nhẩm tính, loại kịch này anh đã viết ra ít nhất cũng vài trăm. Có
những vở sâu sắc như "Bầu bán" chẳng hạn. Có nhảy xuống nước bơi mới
biết tài đồng đội. Riêng tôi, tôi bái phục ông lão «tốt nái và mắn đẻ thật!».
Tôi thường đến
anh, lặng lẽ ngồi ngắm cái bàn viết của anh. Trên mặt bàn, bên phải là cái máy
chữ xách tay cùng giấy pơ luya, giấy than. Trước mặt: giá bút, dao kéo và lọ hồ
(để cắt dán những chỗ sửa chữa trong các bản viết tay). Bên trái anh là cái blocnote
để anh ghi công việc hàng ngày và kẹp các thứ giấy mời (anh được quá nhiều nơi
mời). Hàng tuần, từ thứ hai đến thứ năm, anh viết tác phẩm (cả ngày và đêm).
Thứ sáu, anh viết các loạì "lý sự”: bài báo, chuyên luận, hồi ký v.v... Thứ bảy, tiếp các bạn
trẻ đến nhờ anh góp ý kịch bản (hoặc anh dành thì giờ sửa giúp kịch bản). Chủ
nhật, anh viết tiết mục (anh quan niệm: tác phẩm là loại "sống lâu"
như Quẫn, Cửa mở hé, Quẫy... còn tiết mục là loại phục vụ kịp
thời như Bầu bán, Người nữ tự vệ áo trắng, Hỏi vợ… gần đúng như cách phân
biệt “hàng thửa" và "hàng chợ” của cụ Yên Đổ ngày xưa.
Anh ăn uống
thật đạm bạc nhưng không chịu được bữa cơm cẩu thả. Vì thế, không một ai chiều
nổi anh ngoài chị ấy, một người vợ hiền, thật sự hiền của anh.
Anh có thú uống
rượu và có những bữa rượu đã đưa anh vào giai thoại, nhưng anh không bê tha. Có
rượu ngon, bạn tốt thì uống chơi, be sành, chén sứt cũng quí. Còn rượu xoàng,
bạn rởm thì thôi, dù bát ngọc mâm vàng cũng không thiết. Đúng như lời thơ xưa:
Rượu ngon thì uống chơi
Rượu xoàng thì tớ thôi...
Nhiều người chỉ
biết anh là người viết hài kịch mà không hề biết anh còn viết cả bi kịch, chính
kịch, như loại Du kích thôn Đồi, Đòi con... Anh còn viết cả chèo (Đôi
mắt cô Tơ, Cánh chim luân lạc) cải lương (Tình sử A nàng), tuồng
(Mỵ
Châu - Trọng Thủy)... Chính
mắt tôi trông thấy chồng bản thảo của anh, riêng loại dài hơi và đặc biệt loại
bi kịch và chính kịch cũng đã vượt trên con số một trăm.
Anh bông phèng
cả ngày nhưng cuộc sống thật nghiêm nghị, nghiêm nghị đến thành "tích". Có những lần đi thực tế,
tiếp xúc với lãnh dạo địa phương, các cô bạn viết trẻ hàng ngày chuyện gẫu, tán
như mụ dạy, ma "làm", thế mà ngồi bên anh, đố có dám toe toét. Hỏi ra
mới biết vì họ sợ "cụ". Cụ đây là cụ Lộng, mặc dầu, cụ luôn luôn kính
trọng phụ nữ, dành cho họ nhiều ưu ái nhất, chưa bao giờ nói nặng với một người
nào (may mà họ không xem anh là cụ "Khốt"). Tôi không phải là phụ nữ
nên không thể nói ra được phản cảm trong lòng họ. Có lẽ phải nhờ nữ đạo diễn Hà
Nhân, nguyên Cục trưởng Cục Nghệ thuật, chắc trong vòng 40 năm qua, chị cảm
nhận được ở cụ nhiều điều đặc biệt…
Người đi xem
sân khấu luôn luôn nhận ra bút pháp và phong cách Lộng Chương nhưng mới chỉ
thầy cái vị chua cay, khinh bạc.
Vâng, có đấy.
Giọng điệu Lộng Chương là giọng điệu chua cay, khinh bạc; Nhất là giọng điệu ấy
lại được các nghệ sĩ tài năng như Song Kim, Thu Hà, Chu Xuân Hoan, Ngô Cừ thể
hiện thì càng rõ nét thêm.
Anh thường nói
với tôi là anh học tập Molie trong cách viết và khuyên chúng tôi nên học Molie.
Nhưng theo tôi, đó chỉ là cách nói khiêm vì anh là Lộng Chương, hậu thân của
Sai Ất hoặc Từ Đạo Hạnh, chứ trong người anh không có pha một chút máu Tây nào.
Trước năm 40
tuổi, anh viết hài kịch với tất cả thái độ căm giận, đánh một hèo chết tươi đối
với những bệnh hoạn cuộc đời "đã đáng chết mà vẫn còn đang sống" nhăn
răng ra đấy.
Sau cái tuổi
"bất hoặc", mỗi năm, anh viết một chín hơn. Đằng sau tiếng cười sâu
cay, dữ dội, người xem còn cảm nhận được tấm lòng thương xót những số phận con người
muốn hướng thiện, muốn đi lên cái tốt, cái đẹp thật viên mãn.
Hãy đọc lại
những phóng sự Hầu thánh (1944), Đò
dọc (1948), chúng ta thấy anh thật quyết liệt, đánh giập, đánh vùi, vạch
mặt những kẻ hư hỏng không một chút tiếc thương.
Nhưng đến Quẫn
(1959) và Cửa mở hé (1971) chúng ta đã thấy anh ưu ái các nhân vật,
kể cả các nhân vật tiêu cực, vì anh xem họ chỉ là nạn nhân của thế kỷ. Trong Ngã,
anh đau, anh khóc một bạn nghề. Vì thế, tiếng cười của anh thường tiếp cận
với tiếng nấc nghẹn ngào.
Là người có
nhiều đóng góp cho sân khấu cách mạng, từ sáng tạo đến đào tạo xây dựng, anh
cười cợt và nói bông cả ngày, cả tháng, nhưng tôi dám đánh cuộc với bất cứ ai
phát hiện được một sự lệch lạc ở anh về tiền bạc, về đàn bà hoặc về chấp hành
công tác trong suốt nửa thế kỷ qua.
Đó là những vấn
đề tôi nêu lên để đề nghị các bạn đọc thẩm tra và phán xét cho thật đúng về
anh.
Ngày
22 tháng 9 năm 1992
NVK Lộng Chương (ngồi chính giữa) cùng Đoàn kịch Công Nhân Hà Nội |
(*) Tập Hài kịch Lộng Chương - Nxb
Sân khấu, 1992; Sách
“Lộng Chương trong trái tim bè bạn”, Nxb Hội Nhà văn, 2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét