Vài cảm nhận về kịch bản văn học "A
Nàng" của Lộng Chương
Nhà nghiên cứu sân khấu Nguyễn
Thị Lan
1. Lộng Chương (1918-2003), người con của
quê hương xứ Đông (Hải Dương), giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật
năm 2000, là một trong những người đặt nền móng cho sân khấu Việt Nam hiện đại
từ sau Cách mạng Tháng Tám, một trong những nghệ sĩ lớn trong đội ngũ văn nghệ
sĩ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sáng tác của Lộng Chương rất đa dạng, nhiều thể loại gồm
9 tập thơ và ca dao, 5 tập phóng sự, 81 kịch bản dài ngắn, ký kháng chiến,
nhiều tiểu luận phê bình sân khấu (theo "Từ điển văn học", Bộ mới,
NXB Thế giới, trang 871). Thật là một khối lượng tác phẩm đồ sộ, một năng lực
sáng tạo dồi dào.
Đến với văn chương từ rất sớm, chàng trai Phạm Văn Hiền
bắt đầu sự nghiệp văn chương bằng tiểu thuyết phóng sự "Hầu thánh"
chứ không phải bằng truyện ngắn như nhiều người khác. Nhà thơ Hữu Thỉnh, chủ
tịch Hội Nhà văn nhận xét: "Đó là một người kỳ tài".
Viết nhiều thể loại nhưng tên tuổi Lộng Chương để lại dấu
ấn sâu đậm nhất lại ở tư cách người viết kịch. Ông viết kịch nói, kịch thơ,
chèo, tuồng, chính kịch, bi kịch, hài kịch. Tuy vậy, hài kịch dường như vẫn là
thể loại mà ông tâm đắc nhất. Sẽ không cường điệu khi nói ông là "danh thủ
hài kịch", là người có đóng góp hàng đầu cho thể loại hài kịch Việt Nam
hiện đại, là "cây hài sân khấu số một Việt Nam".
2. Trong 81 kịch bản của Lộng Chương,
"A Nàng" là một kịch bản khá đặc biệt. Đây là vở kịch thơ, một thể
loại Lộng Chương ít viết nhưng lại để lại nhiều dấu ấn đẹp trong lòng khán giả.
Vở "A Nàng" gồm 2 lớp, 6 cảnh ra đời năm 1961.
Tôi được xem vở "A Nàng" từ những năm 60 của
thế kỷ trước, lúc đó tôi mới là cô bé hơn 10 tuổi. Vở "A Nàng" được
đoàn cải lương Kim Phụng diễn ở Vọng Cung (bây giờ là Nhà hát nhân dân thành
phố Hải Dương). Ấn tượng sâu đậm của tôi và khán giả bấy giờ là tiếng kêu khắc
khoải bi thương "A Nàng" "Khảm Khắc" của hai nhân vật chính
ở cuối vở kịch. Tiếng gọi đó làm "tan nát trái tim" của một thế hệ
khán giả mà đến tận bây giờ nhiều người còn nhớ.
Sau này được biết, sinh thời vở "A Nàng" đã
được ngoài đoàn cải lương Kim Phụng, các đoàn Bình Minh (Nam Định), đoàn Hoa
Mai (Hà Sơn Bình) cũng dàn dựng và biểu diễn khoảng thời gian đó. Sau thống
nhất đất nước, "A Nàng" đã được hơn 20 đoàn nghệ thuật phía Nam dàn
dựng.
3. "A Nàng" là thể loại kịch thơ
trong loại hình văn học kịch. Thể loại này đòi hỏi lời thoại dùng thơ thay cho
ngôn ngữ thông thường. Ở vở kịch thơ "A Nàng", Lộng Chương đã sử dụng
lời thơ có vần, đa phần là thơ tự do với những câu dài ngắn khác nhau, có chen
lục bát và song thất lục bát.
Lợi thế của thể loại kịch thơ này giúp tác giả với những
lời thơ lúc réo rắt, lúc trầm hùng, vừa gây được kịch tính, vừa gây được khoái
cảm của sự cảm thụ chất thơ trong ngôn từ của khán giả (nhất là những ai yêu
văn chương, yêu thơ). Mặt khác, thể loại này có ưu thế tạo ra độ căng tâm lý
khán giả nhờ vào sự phối hợp khéo léo giữa việc dồn nén xung đột nội tâm của
nhân vật với một vang hưởng thơ thật đúng lúc. Nó rất thích hợp với loại kịch
có chất lãng mạn là "A Nàng".
Về đề tài, vở kịch "A Nàng" xoay
quanh câu chuyện tình yêu đầy bi kịch (còn gọi là bi tình) giữa đôi trai gái
dũng sĩ - người đẹp, một đề tài thường thấy trong những câu chuyện cổ tích, sự
tích các địa danh, danh lam thắng cảnh mà ở vở kịch này là sự tích đèo A Nàng.
Có thể tóm tắt cốt truyện của vở kịch như
sau:
Nàng Ả (con gái duy nhất của nhà Lang) và Khảm Khắc (con
trai của một nô bộc trong nhà Lang) yêu nhau thắm thiết nhưng không được lấy
nhau do phép lệnh bản Mường không cho trai Mường lấy con gái nhà Lang. Mâu
thuẫn vở kịch mở ra ngay từ đầu khi Lang Quách Lùng quyết định gả con gái cho
Chiêu Hởn, con trai của Lang Mường Cun. A Nàng nhất quyết không chịu lấy. Căm
giận, Lang định giết cả con gái và người yêu của nàng. Tức giận vì không cưới
được A Nàng, Chiêu Hởn dẫn quân đến đốt phá bản. Trong tình thế nguy cấp, Lang
phải thả Khảm Khắc ra để chàng đánh giặc. Giặc tan, dưới áp lực của dân bản,
Lang phải đồng ý gả A Nàng cho Khảm Khắc nhưng với điều kiện Khảm Khắc phải
trèo lên đỉnh Choong - Lồ cao thăm thẳm 9 tầng dưới là vực sâu khi Lang đánh
dứt hồi chiêng. Khảm Khắc đã vượt qua được thử thách nhưng Lang lòng dạ nham
hiểm tráo trở đã lén phóng ngọn dáo giết chết Khảm Khắc khi chàng vừa chạy lên
đến đỉnh núi. Khảm Khắc rơi xuống vực. Nàng Ả đau đớn lao mình theo người yêu
sau tiếng gọi tuyệt vọng của hai người "A Nàng" "Khảm Khắc"
vang động núi rừng. Cuối vở kịch Lang đã ném lão Mo xuống vực. Sợ hãi trước sự
căm hờn của dân bản, Lang lùi dần, đổ vật xuống vực thẳm.
4. "A Nàng" hấp dẫn người xem bởi đó
là một vở kịch có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Giá trị nhân đạo đó trước hết thể hiện ở sự quý trọng các
giá trị người như trí tuệ, tâm hồn, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp... Vẻ
đẹp lý tưởng của con người được tác giả tập trung khắc hoạ ở hai nhân vật
chính: A Nàng, Khảm Khắc.
A Nàng là một sắc đẹp núi rừng u uẩn với tấm lưng thon,
mái tóc thơm mùi trinh nữ và đôi mắt đen thăm thẳm. Nàng như cây quế cao giữa
đại ngàn.
Khảm Khắc mang vẻ đẹp nam tính lý tưởng: to lớn, khoẻ
mạnh, lao động cừ, can đảm và nghĩa khí. Đây là đoạn thơ phác thảo chân dung
người dũng sĩ mang tầm vóc vũ trụ:
"Một
cây nỏ cứng
Một
lưỡi dao lưng
Đầu
đội trời xanh
Chân
đạp núi biếc
Mỗi
bước chân là mỗi bước chuyển rừng
Đuổi
thú
Giữ
nương
Để
dân bản Mường vui hát"
Người con trai đó như loài chim cắt bắt
diều hâu. Khi xung trận thì tiếng vang rền như sấm, chàng đã vượt qua mọi thử
thách với một tinh thần bất khuất kiên cường.
Tình yêu của đôi trai gái đó cũng là tình
yêu lý tưởng, một tình yêu đẹp nhưng đầy oan trái, một tình yêu trong sáng,
không vụ lợi tính toán, thơm ngát tựa hương lan. Tình yêu đó đẹp vì nó không
phân biệt đẳng cấp sang hèn, những cách biệt giai cấp, những định kiến luật lệ
hà khắc.
"Đã
yêu nhau đói khổ chẳng sờn
Đã
yêu nhau dù ở lều cỏ ngoài thôn
Lều
anh dựng còn quý hơn nhà cao giữa bản"
Có những hình ảnh thật đẹp, thật lãng mạn
khi Khảm Khắc hứa với người yêu về một cuộc sống tốt đẹp:
"Anh
sẽ chặt rừng làm nhà cho em ở
Trên
đỉnh Choang - Lồ mây gió bốn mùa trăng"
Yêu nhau, họ thề nguyện chung thuỷ suốt
đời, dù "Suối có cạn nhưng tình yêu
không cạn", hay:
"Đôi ta như chỉ xe
xăn
Thêu
đôi chim nhạn bay thành lứa đôi
Chim
kia liền cánh không rời
Đôi
ta nguyện sống trọn đời bên nhau"
Yêu nhau, họ thề nguyền sống
chết có nhau:
"Tình đôi ta nếu kiếp này lỗi
hẹn
Thà
chết trong lòng nhau... khỏi mang hận sống xa nhau"
Tình yêu đó phải vượt qua
bao gian nan, trắc trở. Họ phải vượt lên nỗi sợ hãi những thế lực bạo tàn đó là
vương quyền, thần quyền, và cuối cùng vượt lên cái chết. Không được sống cùng
nhau, họ đã chết bên nhau. Một kết cục thật bi thương nhưng cũng thật viên mãn.
Chủ nghĩa nhân đạo trong vở kịch còn
ở tư tưởng bình đẳng, công bằng giữa mọi người. Cả A Nàng, Khảm Khắc và dân bản
không chấp nhận cái luật lệ vô lý: tại sao trai bản lại không được lấy con gái
nhà Lang nếu họ yêu nhau, khi họ cùng bú chung "dòng sữa thơm không phân biệt sang hèn" (dòng sữa của mẹ
Khảm Khắc), khi họ gắn bó với nhau, cùng chung bao kỷ niệm?
Chủ nghĩa nhân đạo trong vở kịch còn
thể hiện ở lòng ưu ái với con người và thân phận của nó.
A Nàng, Khảm Khắc có đầy đủ những
phẩm chất tốt đẹp và đáng được hưởng hạnh phúc nhưng họ phải sống kiếp trâu
ngựa tôi đòi.
Nói về nỗi đau khổ, tủi nhục của A
Nàng, Khảm Khắc và những kiếp người khác dưới ách thống trị của Lang và thầy
Mo... Lộng Chương biểu lộ tấm lòng thương cảm sâu sắc với những con người trong
nghịch cảnh qua lời kể của người dẫn truyện, lời đối thoại của các nhân vật. Vở
kịch đã tác động đến tình thương, lòng trắc ẩn của con người.
Chủ nghĩa nhân đạo trong vở kịch còn
thể hiện ở thái độ lên án mọi áp bức bất công với con người, lên án mọi thế lực
bạo tàn mà ở đây là Lang Quách Lùng (đại diện cho vương quyền), thầy Mo (đại
diện cho thần quyền). Hai thế lực này đã cấu kết với nhau để đè nén dân lành.
Trước hết là Lang Quách Lùng. Đây là
một kẻ lạnh lùng, bí hiểm, tàn ác, dữ tợn. Uy quyền của Lang thể hiện ở thanh
gươm của hắn có thể rút ra khỏi vỏ, vung xuống bất cứ ai: quyền uy của hắn "như tiếng chuông đồng vang tận rừng
xanh", hắn "cho sống thì
được sống, bắt chết thì phải chết". Hắn bắt Khảm Khắc để hành hình vì
tội đã dám yêu nàng Ả. Hắn đòi giết A Nàng vì đã không nghe lời cha. Hắn đẩy
thầy Mo xuống vực sâu vì không được việc. Chính hắn tự nhận:
"Uy quyền ta trùm trời phủ đất
Phải
phanh thây moi mật cả dân Mường
Để
giữ yên phép chúa quyền Lang"
Khinh bỉ người dân thường
sâu sắc, Lang cho rằng:
"Con gái nhà Lang là con gái nhà Trời
Không
thể nào cùng loài bọ chó kết đôi"
Con người đó không chỉ
ác, tàn bạo mà lòng dạ còn đen tối, tráo trở, phản trắc. Đành phải gả con gái
cho người anh hùng của bản (chính người này đã cứu hắn thoát chết), hắn bày mưu
tính kế để giết hại Khảm Khắc. Lăn gỗ, lăn đá xuống núi không cản được bước
chân dũng mãnh của Khảm Khắc, hắn đã tự tay cầm dao đâm chết Khảm Khắc khi
chàng vừa chạy đến đỉnh núi. Sự
tàn bạo phản trắc đê hèn của Lang Quách Lùng đã lên đến đỉnh điểm.
Bổ sung cho nhân vật Lang Quách Lùng là thầy Mo - một kẻ
đại diện cho thần quyền ở miền núi.
Nếu Lang thống trị con người về thể xác, thì thầy Mo
thống trị con người về mặt tinh thần. Đó là một kẻ nham hiểm, tàn độc với hình
ảnh xoã tóc, tiếng nói the thé như rắn phun, tiếng cười khành khạch như khỉ
kêu, cổ vươn dài như cổ rùa, đôi mắt sắc như dao và tiếng hú khủng khiếp. Khi
đi bắt vía người khác, Mo "tóc búi
ngược quấn trong vành khăn tày vố, đuôi tóc xoà sang một bên, trong tay cầm
kiếm trừ tà, mắt nhắm nghiền, miệng lầm rầm đọc thần chú". Lão đi tới
đâu reo rắc khủng khiếp tới đó, làm cho dân bản "tức thổ, nghẹn lời, hồn vía rụng rời". Lão đọc thần chú
khiến cho mọi người "run cầm cập quỳ
mọp xuống". Khi lão bắt vía nàng Ả khiến cho cô "rũ người xuống, như đắm trong giấc mê dày đặc". Quyền
lực của lão Mo quả là ghê gớm, Cùng với Lang Quách Lùng, lão Mo đã tạo ra một
tấm lưới bủa vây, giam hãm những con người thấp cổ bé họng.
Chủ nghĩa nhân đạo trong vở kịch "A Nàng" còn ở
chỗ tác giả đã phát hiện ra tiềm năng vươn lên của đồng bào miền núi. Tiềm năng
này thể hiện rõ ở Cảnh năm (Cuớp dâu) và Lớp hai của vở kịch. Những con người
bị áp bức đó đã vươn lên tự giải phóng khi họ đã dần cảm nhận kiếp sống không
bằng con trâu con ngựa của mình, cái chết vô lý của A Nàng, Khảm Khắc.
Ở cảnh năm, người trai của Mường Pua, bạn của Khảm Khắc
là Út Kiển đã dám cướp cô dâu để mang A Nàng về cho Khảm Khắc. Ở lớp hai, cũng
chính Út Kiển đã xốc ngược con dao lao vào Quách Lùng khi chứng kiến cái chết
bi thương của Khảm Khắc, A Nàng. Người trai này đã hét lên:
"Máu
dân Mường đã bốc lên thành lửa
Sẽ
thiêu tàn cả năm dòng họ Lang!
Lưỡi
mác này còn đẫm máu trai Mường...
Sẽ
trả oán cho Nàng Mai... Khảm Khắc!"
Kết thúc vở kịch là tiếng vọng trầm hùng:
"Đỉnh
Choong - Lồ ứa máu
Mặt
trời lên!
Ngực
dù nát...
Người
trai Mường ngẩng mặt"
Chính kết thúc này mang đến cho vở bi kịch
màu sắc bi tráng.
Viết về cái bi kịch nhưng tác giả đã hướng về cái lạc
quan, cái cao cả chứ không bao giờ mất đi niềm tin thiêng liêng của con người
với cuộc sống. Đây là chức năng cao cả của văn học nghệ thuật từ cổ chí kim.
5. Giá trị nghệ thuật của vở kịch.
A Nàng hấp dẫn người xem trước hết ở hành động kịch nhất
quán: đó là mối tình đẹp nhưng đầy bi thương của hai nhân vật chính. Mọi diễn
biến của vở kịch đều xoay quanh hành động kịch này.
Nói đến kịch là phải nói đến mâu thuẫn xung đột, đây là bản
chất của kịch. Hêghen nói: "Phải đẩy
tới chóp đỉnh của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình vẻ mới hiện ra." Ở
"A Nàng", mâu thuẫn được đầy dần lên từ đầu đến cuối. Chóp đỉnh của
mâu thuẫn ở cuối vở kịch khi nhân vật Lang phóng ngọn dáo vào ngực Khảm Khắc...
"A Nàng" là một vở bi kịch tiêu biểu. Chất bi
kịch ở đây là xung đột bi thảm của nhân vật anh hùng với các thế lực đen tối,
bạo tàn, của cái cao cả với cái thấp hèn, cái xấu với cái đẹp, cái thiện với
cái ác. Vở kịch kết thúc thật bi thảm, đầy chất thống thiết với cái chết của
bốn nhân vật.
Về bút pháp, "A Nàng" được tác giải Lộng Chương
viết với bút pháp lãng mạn. Một đặc điểm nổi bật của bút pháp này là khoa
trương. Khoa trương để nhấn mạnh. Chính vì vậy từ thiên nhiên đến con người
(với vẻ đẹp, tài năng, sức manh, dục vọng) tất cả đều mang kích thước lớn,
nhiều khi mang tầm vóc vũ trụ, nó tạo nên độ căng của cảm xúc khán giả, nó gây
nên những "cú sốc thẩm mỹ" cho người xem.
Một điểm nữa trong bút pháp của tác giả là "A
Nàng" giàu chất trữ tình. Trữ tình ở lời thoại của các nhân vật, ở những
chỉ dẫn ở đầu mỗi cảnh từ thời gian, địa điểm, cách bài trí sân khấu. Qua đó
người xem có thể tưởng tượng ra một thiên nhiên ở Tây Bắc vừa thơ mộng vừa hùng
vĩ. Từ bức tranh phong cảnh với đèo cao, vực sâu, sông suối, thác nước, mây
núi; rồi các loài vật nhỏ như cá, chim én, to như con trâu, con ngựa, con nai,
con hoẵng, con beo gấm; rồi những khung cảnh quen thuộc ở miền núi những ngôi
nhà sàn, những bếp đỏ lửa, những hũ rượu, những ánh đuốc chập chờn; rồi những âm
thanh quen thuộc của núi rừng: tiếng chim "từ qui", tiếng chày giã
gạo, tiếng sáo chơi vơi, tiếng hú gọi người, tiếng cồng chiêng, tiếng trống,
tiếng vọng qua rừng khuya dồn vào vách đá... Tất cả đã nói lên một điều: tác
giả "A Nàng" đã sống kỹ, giàu vốn sống, trải nghiệm về miền núi phía
Bắc. Chính những am hiểu sâu sắc của tác giả làm cho vở kịch giàu
"chất" miền núi, làm cho khán giả thích thú với những màu sắc của xứ
lạ phương xa.
Cuối cùng là ngôn ngữ tác phẩm. Lộng Chương có một vốn
ngôn ngữ phong phú. Ông vận dụng thành công cách nói của người miền núi vừa hồn
nhiên vừa giàu hình ảnh. Tác phẩm có một ngôn ngữ giàu chất văn, tinh tế và
đẹp, điều đó đã mang lại khoái cảm thẩm mỹ cho người đọc kịch bản.
Nhìn chung cuộc sống và con người ở vùng
cao Tây Bắc đã được kịch bản "A Nàng" thể hiện một cách chân thực,
sinh động trên quan điểm giai cấp và tinh thần nhân đạo cảm động - một tinh
thần nhân đạo chiến đấu tích cực. Tuy hai nhân vật chính đại diện cho cái đẹp
mất đi nhưng tác giả đã tìm được một con đường tốt đẹp cho một cộng đồng dân
tộc, con đường giải phóng thực sự.
Với giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, "A
nàng" xứng đáng là một trong những vở kịch tiêu biểu nhất của nhà viết
kịch Lộng Chương.
Hải
Dương, tháng Tám năm 2014
(*) Hội thảo tổ chức ngày
11/9/2014 tại trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật Hải Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét