Nhà viết kịch Lộng Chương và những đóng góp
của ông cho nền Sân khấu Việt Nam thế kỷ XX
(Tham luận
của tôi thể hiện Những
cống hiến của Nhà văn - Nhà viết kịch Lộng Chương thông qua 3 vai trò: Vai trò
thứ nhất là Tác giả - Đạo diễn sáng tạo NT sân kh ấu. Vai trò thứ hai là sáng lập
các Đoàn Nghệ thuật, sáng lập Hội Nghệ sỹ
Sân khấu Việt Nam và vai trò thứ ba là đào tạo, bồi dưỡng thế hệ nghệ sỹ trẻ kế
cận).
I.
Nhà
viết kịch Lộng Chương và quá trình sáng tạo nghệ
thuật
Nhà
văn - Nhà viết kịch - Đạo diễn sân khấu Lộng Chương (Sinh ngày 5/2/1918, mất ngày 26/6/ 2003). Tên
khai sinh là Phạm Văn Hiền, sinh ra và lớn lên tại thôn
Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đã được Nhà nước tặng Huân chương Độc Lập hạng Ba và
trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật đợt 2 (2000).
Nhà viết kịch
Lộng Chương từng làm công chức thời Pháp thuộc nhưng trong nhà ông chất đầy sách
viết về sân khấu của các tác giả nổi tiếng thế giới. Chính nhờ các sách đó, ông
đã vượt qua mọi trở ngại và miệt mài tự học nghề một cách thầm lặng, không trường,
không lớp. Trường học mà ông chăm chỉ dấn thân vào là trường đời và các đoàn
nghệ thuật sân khấu.
Thế hệ của những nghệ sĩ như: Lộng Chương, Học Phi, Bưu Tiến, Nguyễn Văn Niêm… là thế hệ
kịch tác gia đầu tiên của Việt
Nam trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và là những bậc
tiên chỉ của giới viết kịch Việt Nam.
Đến với sân khấu, ông tả xung hữu đột ở
nhiều lĩnh vực: Khi là diễn viên, khi là đạo diễn, khi là người quản lý đoàn
nghệ thuật, rồi có khi lại là người thầy truyền nghề cho thế hệ trẻ. Thế nhưng,
tên tuổi ông để lại dấu ấn sâu đậm nhất lại là ở tư cách nhà viết kịch.
Ông ưa lối viết văn chương trào lộng. Có
lẽ vậy mà ông lấy bút danh Lộng Chương. Ông đã chọn thể loại hài kịch để dâng
hiến cuộc đời và sự nghiệp trên con đường nghệ thuật của mình. Giới sân khấu
khi nhắc đến ông đều nhớ đến câu thơ nổi tiếng: “Muôn thói đời tối đen phải lùi
xa qua ngữ ngôn trào LỘNG/Một tâm hồn hiền hậu luôn đi đầu với đòn bút văn
CHƯƠNG”.
Chuyên chú theo phong cách đó, bằng nhiều
vở kịch ngắn: Hỏi vợ, Yểm bùa, Mối lo của mụ Cửu, Ma
hiện... Tiếp
đó là những vở hài kịch dài: Quẫn,
Quẫy, Cửa mở hé… tên
tuổi Lộng Chương đã được ghi nhận như một tác giả hài kịch nổi tiếng trong nền
sân khấu VN hiện đại. Hài kịch của ông đem vào đời sống sân khấu những chuỗi
cười sảng khoái, tự nhiên với nhiều cung bậc và sắc thái đa dạng.
Ngày nay, nhắc đến tác giả Lộng Chương,
người ta không thể không nhắc đến
vở Hài kịch “Quẫn” - Vở
diễn được coi như đỉnh cao của thể loại hài kịch VN
hiện đại. Qua bàn tay dàn dựng tài ba của đạo diễn
Trần Hoạt, vở “Quẫn” được diễn trong một thời gian dài, với số buổi lên
tới trên 1000 buổi diễn. Đối với thể loại Hài kịch, sân khấu thế giới nổi tiếng
bởi tác giả Mollie và Việt Nam là tác giả Lộng Chương.
Một vở Hài kịch khác của Lộng Chương là Cửa mở hé
cũng đã được các Đoàn kịch Hải Phòng, Hà Nội và Thanh Hoá dàn dựng và biểu diễn
trong thời gian dài. Tiếng cười trong các vở kịch hài của Lộng Chương mang nhiều sắc thái
khác nhau: khi thì vang lên rộn rã suốt năm hồi kịch như Quẫn,
nhưng cũng có khi chỉ rộ lên ở một vài cảnh như Cửa mở hé, hoặc một
số vở kịch vui khác như: Hỏi vợ, Yểm bùa trừ sâu, Mối
lo của cụ Cửu...
Có thể nói, Nhà văn - Nhà
viết kịch Lộng Chương là người viết khỏe trên nhiều lĩnh vực với số lượng tác
phẩm lớn. Trong mười năm tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp,
tác giả Lộng Chương đã cho ra đời 17 vở kịch ngắn và dài. Trong đó có những vở
ghi đậm dấu ấn lên quá trình sáng tác của ông, được nhiều người biết đến
như: Lí Thới (1948), Du kích thôn Đồi (1952), Đoàn quân
tóc trắng (1953), Chiến
đấu trong lòng địch (1954)...
Hòa bình lập lại, trong thời gian diễn ra cuộc đấu tranh
chống cưỡng ép di cư, Lộng Chương đã cho ra đời một số vở như: Nhỡ
chuyến tàu bay, Ma hiện, Giữa đường, Mưu giặc…
Giai đoạn sau này, Lộng Chương vừa viết vừa chỉnh lý, viết
lại gần 100 vở, gồm nhiều thể loại: Kịch nói, kịch hát, kịch rối... Phần lớn
những vở ông viết ra đều được sử dụng, in thành sách, các đoàn dàn dựng hoặc
phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông là cây bút tham gia liên tục mỗi tuần 1
vở, trong khoảng 10 năm, (những năm 60-70 của TK XX) với Chương trình binh vận của Đài Tiếng nói Việt Nam. Số tác phẩm này
lên tới hàng trăm, nhưng do điều kiện làm việc trong giai đoạn chiến tranh lúc
bấy giờ, nên không lưu giữ được nhiều.
Ngoài kịch nói, Lộng Chương còn sáng tác Chèo như: Đôi
ngọc lưu ly (Tích cổ viết lại, in trong tập Tích cổ viết lại, Nxb Văn
hoá, 1982). Vở này viết lại tích Chèo Trương Viên, được bổ sung và nâng cao về
nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm để phù hợp với thời đại mới; Vở
Tuồng “Tình sử Loa Thành” (Mỵ
Châu - Trọng Thuỷ ) đã được Nhà hát Tuồng Trung ương và Chèo Hải
Phòng, Quảng Ninh... dàn dựng ở thể loại Chèo; Vở A Nàng (Nxb
Văn nghệ, 1962) đã được Đoàn Cải lương Kim Phụng, Đoàn Bình Minh (Nam Định),
Đoàn Hoa Mai (Hà Sơn Bình) dàn dựng và biểu diễn cùng trong khoảng thời gian đó.
Sau thống nhất đất nước, A Nàng đã được hơn 20 đoàn nghệ thuật
phía Nam dàn dựng.
Bên cạnh sáng tác Kịch nói, Kịch thơ, Chèo, Rối, hoặc chỉnh
lý, chuyển thể, viết lại kịch bản, Lộng Chương còn sáng tác cả văn vần để phục
vụ cho công tác cổ động tuyên truyền theo nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn
cách mạng. Ông viết cả phóng sự, ký sự kháng chiến. Một hoạt động khác cũng khá
tiêu biểu trong hoạt động sân khấu của ông là phần viết tiểu luận, lý luận -
phê bình sân khấu.
Tuy nhiên, câu hỏi:
“Làm sao cho kịch nói VN có sắc thái VN” là điều ông luôn trăn trở trong quá trình cầm bút và ông đã quyết
định tìm đến nghệ thuật chèo vì trong chèo ông bị hấp dẫn bởi “tính lạc quan đặc biệt qua
cách trào lộng châm biếm mang tinh thần của những truyện tiếu lâm rất phổ biến
trong nhân dân”. Với tiêu chí đó, ông đã đưa chèo vào kịch, hay nói
một cách khác, ông là người chủ xướng thực hiện việc sáng tác kịch nói theo
phong cách chèo. Đó chính là nét độc đáo trong hài kịch của tác giả Lộng Chương
- tiếp nối truyền thống hề chèo với những biến đổi để thích ứng với thể loại
kịch nói, từ đó mang được tính thời sự của hiện thực đương đại.
II. Những đóng góp của Nhà viết kịch Lộng Chương trong vai trò sáng lập các Đoàn NT
và Hội Nghệ sỹ Sân khấu Việt Nam
Ngày Hà Nội
mới giải phóng năm 1954, Đoàn nghệ thuật sân khấu rất ít. Muốn có đơn vị biểu
diễn để làm nghề, ông đã cùng các bạn: Ngọc Đĩnh, Nguyễn Văn Niêm, Việt Hồ, Hà
Văn Cầu lập nên Đoàn kịch nói Mùa Thu.
Ông còn có công xây
dựng Đoàn kịch Công Nhân và Đoàn kịch Thanh Ni ên - Hà Nội, mà cơ quan và đoàn
thể chủ quản không mất công sức và tiền của để đầu tư nhưng vẫn có tiếng nói của
mình.
Trong những năm kháng
chiến chống Thực dân Pháp trước đó, ông là người đứng ra thành lập Đoàn Văn công
Điện Biên - Liên khu III, được đồng chí Lê Thanh Nghị (Phó Thủ tướng của Chính
phủ kháng chiến) đánh giá như một cống hiến tinh thần lớn.
Những năm kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, ông tham gia viết và dựng vở cho Đài Tiếng nói Việt Nam, một
tuần một vở 30 phút, chỉ với hai nhân vật, mà ông gọi là “Kịch tương thanh”,
theo yêu cầu của Tổng cục Chính trị - Quân đội nhân dân Việt Nam. Việc này được
làm liên tục trong suốt 10 năm không nghỉ.
Đặc biệt, trong cả cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình,
Lộng Chương là người nghệ sĩ luôn trăn trở, tìm cách bảo tồn và phát huy nghệ
thuật truyền thống của dân tộc. Một sự kiện mà lịch sử sân khấu còn ghi là,
những năm 60 (TK XX) Lộng Chương đã cùng bạn bè là Lưu Quang Thuận, Trần Huyền Trân, Hà Văn Cầu, Nguyễn Đình Hàm, góp công
sức xây dựng Đoàn Chèo Cổ Phong và cùng nhau khảo tả, sưu tập, chỉnh lý và bảo
tồn nhiều vở chèo cổ.
Người làm
nghề cần có tổ chức nghề nghiệp. Thế là ông cùng các bạn nghề: Hà Văn Cầu, Trần
Huyền Trân, Lưu Quang Thuận, Đoàn Đức Nhã... đứng ra vận động thành lập Hội Nghệ
sỹ Sân khấu Việt Nam. Đến cuối tháng 7/1957 Hội đã ra đời. Có Hội lại phải lo
trụ sở. Ông vận động mua được căn nhà 84 Nguyễn Du nhưng rồi lại phải nhường
cho cơ quan khác để về 51 Trần Hưng Đạo như bây giờ.
III. Nhà viết kịch Lộng Chương trong vai trò đào tạo,
bồi dưỡng thế hệ trẻ kế cận sự nghiệp sân khấu
Một phương diện khác của Nhà viết kịch Lộng Chương mà
chúng ta không thể bỏ qua đó là sự nghiệp “Sư phạm sân khấu”. Ông không có trường
lớp, không có nhiệm vụ giao phó để đảm trách công việc nặng nề và tế nhị là đào
tạo nghề sân khấu cho các thế hệ trẻ tiếp nối; nhưng vì tình yêu với nghiệp tổ,
với nền sân khấu dân tộc mà ông tự nguyện bỏ tâm sức, thời gian, thậm chí cả tiền
bạc và dùng chính ngôi nhà của mình để làm nơi truyền nghề cho các bạn trẻ đến
từ khắp nơi trên mọi miền Tổ quốc...
Ông từng dốc nhiều
sức lực vào việc học nghề một mình, nhưng lại không làm nghề một mình. Có thể nói,
Nhà Văn - Nhà viết kịch Lộng Chương là bậc thầy lớn đào tạo nên rất nhiều kịch
tác gia, các học trò cả biểu diễn lẫn sáng tạo văn học nghệ thuật. Trong đó có
nhiều nhà hoạt động nổi tiếng của nền sân khấu nước nhà, tiêu biểu là Đạo diễn
- NSND Doãn Hoàng Giang - một trong những cây đa, cây đề của nền sân khấu Việt
Nam hiện nay.
Có thể nói đóng góp
của Lộng Chương đối với sự nghiệp đào tạo, truyền nghề cho thế hệ trẻ cũng là một
“dấu ấn” mà Lộng Chương đã khắc ghi trong đời sống sân khấu Việt Nam hiện đại.
Ngày nay, nhắc đến nhà văn, nhà
viết kịch Lộng Chương - những người được làm việc cùng ông và cả những học trò
của ông đều dành cho ông những tình cảm trân trọng, yêu quý. Những cống hiến của
ông cho sân khấu cách mạng và đương đại Việt Nam đã được tôn vinh bằng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Vừa qua, Hội Nhà văn VN và Hội Nghệ sĩ sân
khấu VN đã tổ chức lễ tưởng niệm 10 năm ngày mất của ông (2003 - 2013).
Đời người tuy ngắn
nhưng nghệ thuật thì dài... Những điều Nhà văn - Nhà viết kịch - Đạo diễn Lộng
Chương đã làm được cho nghệ thuật sân khấu
nước nhà sẽ còn mãi với thời gian... Và những đóng góp của ông trong ba vai trò
cụ thể như trên đã thể hiện một nhân cách văn hóa cao đẹp - Nhân cách của người nghệ sỹ Lộng Chương mãi
mãi là tấm gương sáng cho mọi thế hệ nghệ sỹ noi theo./.
(*) Hội thảo tổ chức ngày
11/9/2014 tại trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật Hải Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét