Chất
trào lộng trữ tình trong thơ Lộng Chương
Nhà thơ Trương Thị Thương Huyền
Nhà thơ Thương Huyền
Có một
nhà văn, trong suốt cuộc đời cầm bút, bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, gần
gũi đã bám sát hiện thực đời sống, bám sát quan điểm sáng tác của riêng mình
là: “Nghệ thuật không thể dùng cách nói lấy lòng, vì như thế là giết chết nghệ
thuật”. Có một nghệ sĩ, bằng ngòi bút nghệ sĩ - chiến sĩ đã xông pha trên mọi
lĩnh vực đời sống xã hội, thông qua những chất liệu tươi rói, ngồn ngộn hiện
thực để phản ánh cuộc đời. Với lòng nhiệt tình của người trí thức sớm giác ngộ
cách mạng, với lương tâm và trách nhiệm của người công dân trong thời đại mới,
bằng trí thông minh và sự nhạy bén của mình, nhà văn, người nghệ sĩ ấy đã làm
nên một sự nghiệp văn học nghệ thuật đồ sộ ở nhiều thể loại văn học, tác phẩm
sân khấu, nghệ thuật biểu diễn. Ở mỗi góc độ nào ông cũng có nhiều cống hiến và
để lại dấu ấn trong lòng người thưởng thức. Đặc biệt, chất hài thâm thúy, uyên
bác pha chút hài hước, mang nội dung giáo dục, tuyên truyền nhẹ nhàng, dễ hiểu,
dễ nhớ, đã khiến ông trở thành “Cây hài sân khấu số Một” Việt Nam. Tố chất hài
trong ông bộc lộ và thể hiện rõ nét qua những vở kịch vui, những vần thơ đậm
chất u mua phục vụ phong trào sản xuất, đả kích những hủ tục, thói hư tật xấu
đời thường. Chất hài ấy nhẹ nhàng, duyên dáng mà thâm thúy sâu cay, đầy sức
chiến đấu. Cây bút ấy, con người ấy, nhà văn ấy, người nghệ sĩ ấy là Lộng
Chương (tên khai sinh là Phạm Văn Hiền) sinh ngày 5 tháng 2 năm 1918. Quê quán
Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương.
Cuộc đời
và sự nghiệp trước tác của Lộng Chương là cả một chặng đường dài. Trước năm
1945, ông là nhân viên phòng thí nghiệm, Sở Tổng thanh tra Nông Lâm, bắt đầu
làm báo, viết văn. Từ kháng chiến chống Pháp, ông chuyển sang hoạt động sân
khấu. Danh hiệu Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957 và chức vụ ủy viên
Thường vụ Ban Chấp hành Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam thêm một lần khẳng định
tầm vóc và vai trò của ông trong sự nghiệp văn học nghệ thuật của đất nước. Với
những đóng góp to lớn, Lộng Chương được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học, nghệ thuật đợt II - 2000.
Khối lượng tác phẩm đồ sộ của ông đã được
NXB Sân Khấu, NXB Hội Nhà Văn cùng gia đình tập hợp trong ba tuyển tập, gồm:
Lộng Chương - Để đến... Nơi đến (tập kịch và những sáng tác khác), Lộng
Chương trong trái tim bè bạn (tập hợp các bài viết của nhiều tác giả) và
Lộng Chương, Ta - Bạn và Đời (tập thơ) và phát hành rộng rãi trong dịp
tưởng niệm 10 năm ngày mất của ông. Trong khuôn khổ tham luận này, chúng tôi
mạo muội đề xuất những ý kiến về “chất trào lộng và trữ tình trong thơ của Lộng
Chương.
Nếu
so sánh với mảng kịch bản sân khấu, có thể thấy Lộng Chương làm thơ không
nhiều. Những tác phẩm Thơ của ông được tập hợp trong cuốn “Lộng Chương, Ta -
Bạn và Đời” và một phần trong mảng ca dao, văn vần trong cuốn Lộng Chương… Để
đến nơi đến”. Số lượng không nhiều với gần 150 bài thơ và ca dao chở nặng nỗi
niềm thế sự, cùng vô vàn trăn trở với
nghề, với nghiệp, với đời. Những bài thơ ấy được Lộng Chương sáng tác từ những
ngày đầu đi theo cách mạng cho đến khi ông đã ở vào tuổi tri thiên mệnh. Khi
chân đã chồn, sức đã yếu mà trái tim vẫn ngùn ngụt lửa đam mê và tấm lòng vẫn
còn ngổn ngang bao dự định với cuộc đời…
Thơ
của con người kỳ tài Lộng Chương đã trở thành duyên nợ bám theo ông như một lẽ
sống, trở thành một thứ vũ khí không thể thiếu cùng với kịch bản sân khấu để
ông bày tỏ chí khí của mình trước hiện thực cuộc sống. Xuất phát từ quan niệm
nghệ thuật ấy, thơ của Lộng Chương hình thành những lớp nghĩa rõ rệt: Trào
phúng, trữ tình và triết lý, trong đó vẫn lối
viết trào lộng là chủ đạo. Ông ghi dấu ấn đặc biệt ở thể loại thơ trào phúng
với tiếng cười chua cay, khinh bạc nhưng sâu sắc và có cái nhìn nhân ái. Những
gì của hiện thực cuộc sống ông quan sát được đi vào thơ qua những chuỗi cười
sảng khoái, tự nhiên với đa dạng cung bậc và sắc thái. Cảm khoái giữa tiết trời xuân, Lộng Chương “Tức khí giao thừa” mà hớn hở “vào xuân Ngựa đá”, vịnh “Tết mèo hoang”, “tết Rồng”, “tết Khỉ”
hay vào xuân “chuột khoét”. Nghe tiêu
đề cảm thấy dường như có gì bi phẫn với những hỉ nộ ái ố cuộc đời nhưng đọc thơ
ông mới thấy, đó là tấm chân tình của một con người vui tính, lạc quan, dí dỏm,
ưa nô đùa và hay bỡn cợt. Tết Nhâm Tuất 1982, ông hóm hỉnh vịnh: “Năm nay năm chó, chó lên ngôi/… Chó đen giữ
mực rình ăn vụng/ Chó gầy vênh vác mỡ đằng đuôi/Chó dại, chó khôn đều giống
chó/Lang chạ coi chừng chúng đánh hơi…”. Xuân Quý Hợi - 1983 đến, Lộng
Chương lại cười: “Ngài Ỉ tam sinh vật tế
ruồi/Quý từ cái sỏ đến vùng đuôi/Ngai cao thần thánh ngồi như mọc/Trước án nhe
răng, thủ lợn cười…”.
Với
khẩu khí rất riêng, Lộng Chương đem đời sống vào thơ, qua cách trào lộng
châm biếm gần với lời ăn tiếng nói phổ biến trong nhân dân. Từ những chuyện
rất nhỏ của cuộc sống xung quanh, qua những vần thơ đầy ắp tiếng cười, ông chỉ
thêm những góc khuất mang tính thời sự của hiện thực đương đại. Những trạng
thái bất thường trong xã hội, đều được đem ra chế giễu, cười cợt. Nhân nghe
hàng xóm cãi nhau, ông viết, rất nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thật xa xót: “Mình khôn đâu đấy, chửi người ngu/Đồng
chủng, đồng tông, giống bú dù/Gặp buổi thế thời quay lộn ngược/Lũ nỡm đua người
cũng bám đu/ Bám đu dướn mãi chẳng bay cho/ Nhảy nhót phồng mang giở đủ trò/
Nhũng nhẵng dây đu, dây xoắn lại/ Con tườu, con nỡm chửi nhau Ngu”. Nghĩ
đến thói đời đen bạc, hay xu phụ, ông cười vào mũi những loại luồn cúi “mua
danh” để có thêm “Danh - Rá” rồi lại vênh vác dọa đời bằng những câu hàm súc,
cay đắng: “Danh - Rá thời nay rất mõ
làng/Thơ văn rao đủ món thời trang/Khom lưng chạy khắp hàng chức sắc/Vênh vác
ra tuồng dọa xóm thôn/Bố đĩ lần moi vành khố bện/Lấy đồng đong gạo lót lòng
con/Nghe rao những tưởng trời cho của/Đếch phải, chỉ là tiếng ễnh ương”. Hay
ngậm ngùi khi nghe Lộng Chương suy ngẫm về nghề: “Cuộc sống đua chen chán vạn nghề/Nghề tuồng xiêm áo rõ uy nghi/Vãn
trò, văn, võ ra hè phố/Văn rao xổ số! Võ bơm xe”… Đằng sau cái cười thâm
nho của Lộng Chương, đọc mà ngậm ngùi buồn.
Một
mảng trào phúng khá đặc sắc không thể không nhắc đến khi bàn về thơ Lộng Chương
đó là “Tự trào - Tự cười mình”, mảng thơ chiếm một số lượng không nhỏ trong
dòng thơ trào phúng của ông. Sử dụng một lối chơi chữ rất tinh vi, tế nhị,
nghịch ngợm, ranh mãnh, Lộng Chương khiến người đọc bật cười trước vần thơ tự
vịnh: “Ung dung đứng vững chân trơn/Còn
hơn vinh hiển mang ơn tông đồ/Ghế cao, bổng cả, tiếng to/Mề đay lủng liểng như
bùa yểm ma…”; Hay tủm tỉm khi Lộng Chương “Ngẫu hứng”: “Ta nay tuổi đã bảy mươi ba/Sức lực trời cho lại vọt ra/Một năm làm đến
ba trò cực/Kịch cười hai, lại xinema/Thơ vui, thơ riễu vài chục bận/Năng suất như
ri thật quá ta/Ai bảo tuổi già thời lú lẫn/Bành tổ so ta, cũng kém… ha”.
Thật là một lối tả chân siêu thực đúng nguyên trạng cả thần thái, khẩu khí của
ông đến trăm phần trăm.
Không
chỉ tự trào, là người quảng giao, nhiều bạn, sống chân tình, Lộng Chương được
nhiều anh em, bạn bè và học trò nể phục. Họ phục ông bởi tài năng, bởi trái tim
tâm huyết với nghề; Phục ông bởi tính cách thẳng thắn; Phục ông bởi tấm chân
tình, hết lòng với mọi người. Tà tấm lòng yêu mến của bạn bè đó, Lông Chương có
rất nhiều tri kỷ. Bạn của ông có thể là những nhà nghiên cứu có kiến thức uyên
thâm; Có thể là những diễn viên, nghệ sĩ, họa sĩ tên tuổi; Có thể là những nhà
thơ từ cấp có phẩm hàm đến những ông bạn làm thơ trong các câu lạc bộ. và bạn
của ông cũng có thể chỉ là một ông thợ chữa xe… Dù họ có ở hoàn cảnh, thân phận
nào, với họ, ông luôn được sống hết mình. Ông đùa, giễu vui, tìm cái cười hả
hê, châm chọc nhau với những người bạn tri âm rất tế nhị và linh động mà không
ngại bị động chạm, bị thất thố. Những câu thơ ông dành cho họ vui, chân tình và
ám ảnh. Nghe tin ông bạn nhà thơ bị trộm mất quần, Lộng Chương hóm hỉnh “phóng
bút”: “Gạo cao, cơm bữa phải ăn dè/Vải
đắt, quần đơn, cố giữ lề/Đêm giặt để ngày còn tươm tất/Cha thằng kẻ trộm lột
mang đi/Lột đi, ông lấy gì ông mặc/Chả lẽ tồng ngồng nói chuyện thơ/Cái thủa
nào đây mà tệ thế/Đến mặt nhà thơ nó đếch ghê”. Rõ là đùa, mà người đọc vẫn
nhận ra sự xót cảm ngậm ngùi cho người bạn thơ nghèo. Hay ông bỡn ông thợ sửa
xe đạp: “Ông cũng nghênh ngang một góc
hè/Mặc cho thiên hạ vểnh râu trê/Tubim loang loáng như ruồi nhặng/Oai quyền ghê
chửa tiếng còi toe/Ông cũng nghênh ngang một góc hè/Kể từ cuộc sống nó hăm
đe/Lấm lem dầu mỡ nhưng mà sạch/Sạch cả lương tâm, sạch cả nghề…”.
Không
chỉ cười vui, bỡn cợt, với bạn Lộng Chương còn có những vần thơ rất ân tình. Có
lẽ cùng với những câu thơ đau đáu về nghề, thì những vần thơ ân tình này cũng
là một điểm gốc thể hiện tấm lòng nhân ái, chất trữ tình trong thơ Lộng Chương.
Khi bạn ông là ông Đồ Phồn mất, ông khóc bạn với những câu thơ khiến người đọc
ứa lệ: “Anh Đồ Phồn ơi! Anh Đồ Phồn ơi/…
Bốn chục năm qua nhanh là thế/Tám mươi tròn tuổi thọ, Anh đi/Biết rằng: sinh
kí, tử quy/ Vẫn mong để lại chút gì cho nhau…”. Hay “Ngẫm lúc đưa tiễn nhà
thơ Trần Huyền Trân: “Người ta khóc bạn
thật buồn tênh/Đâu phải buồn do nghĩa tử sinh/Mà buồn bởi táng cho xong
chuyện/Nghĩa tình ơi hỡi nghĩ mà kinh”.
Ân
tình với bạn, nên Lộng Chương chia ngọt sẻ bùi. Chỉ “Một sáng rượu suông, ông
cũng chợt nhớ Cao Kim Điển”: “Lâu rồi ông
chẳng đến tôi chơi/Nghĩ mãi xem xem có lỡ lời/Ông giận, ông không thèm đến
cửa/Già không lường hết những điều sai/Thôi thì… nếu có gì sơ xuất/Ông cũng tha
cho, chớ nhớ dai”. Còn nhiều, rất nhiều những câu thơ ông viết cho “Bạn”
với những cung bậc cảm xúc thật khó nói lên lời.
Với
bản lĩnh của con người khí phách, tiếng cười trào lộng trong thơ Lộng Chương
được xuất phát từ một tư cách phát ngôn chững chạc nên ẩn sau thứ ngôn ngữ giầu
có, linh hoạt, giầu nhạc điệu, qua ngòi bút điêu luyện phong phú về mặt trào
lộng, châm biếm hoạt kê, hài hước, với kho danh từ mỉa mai châm chích, biếm
nhẽ, còn cho thấy một bề sâu thời đại, một triết lý muôn thuở, một niềm khắc
khoải đậm tình người, tình nghề, tình đời. Ẩn sâu trong đó chính là nét trữ
tình sâu thẳm trong thơ Lộng Chương. Tấm lòng chân thành của ông trước cuộc
sống hiện lên qua tiếng cười ngỡ sảng khoái mà rất đỗi tinh tế, thâm trầm. Nó
chính là sự ứng xử của thi nhân trước thời đại. Qua ngôn ngữ thơ, người đọc
nhận ra tầng sâu ý nghĩa mà ít nhất có ba lớp: trào phúng, trữ tình và triết lý
như một bức tranh ba chiều hoàn chỉnh. Và dường như trong bức tranh ba chiều ấy,
ở chiều nào người ta cũng thấy nổi bật chất trào phúng, bởi trữ tình và triết
lý trong thơ Lộng Chương đều bắt nguồn từ trào phúng và thuộc về trào phúng Ba
lớp nghĩa này cũng có lúc tách rời nhau, nhưng thường thì xoắn lấy nhau trong
vỏ bọc của một bài thơ và trong toàn bộ mảng thơ tập hợp trong “Ta - Bạn và Đời”
để tạo thành một chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật riêng biệt về thơ Lộng
Chương, góp phần làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Cùng
với kịch bản sân khấu, phải khẳng định, Thơ của Lộng Chương là một đóng góp
không nhỏ làm nên thành công, vị trí và tên tuổi của ông. Sự kế thừa tinh hoa
văn học dân gian làm nên nét độc đáo trong chất trào lộng của thơ Lộng Chương.
Giá trị những tác phẩm ông để lại trong chặng đường phát triển của văn học nghệ
thuật việt nam là cơ sở để khẳng định tên tuổi và vị trí của ông trong văn học
nghệ thuật nước nhà.
Và xin nhắc lại lời đánh giá của Giáo sư Hà Văn Cầu -
Một người bạn tri kỷ của ông trên báo Văn nghệ số 25/2013 để thêm một lần khẳng định
những đóng góp của Lộng Chương đối với
nền văn học nghệ thuật Việt Nam:
“Cả cuộc đời ông đã sống hết mình vì một nền nghệ thuật chân chính, vì hạnh
phúc của nhân dân. Nhà hoạt động văn học, sân khấu, báo chí Lộng Chương - chính
là sự hoà quyện bền chặt giữa con người nghệ sĩ và con người chiến sĩ . Con
người có thể qua đi, tác phẩm có thể mòn mỏi, song anh vẫn còn mãi. Cái còn của
anh thuộc về nhân cách, về đạo đức, về ứng xử, về thái độ đối với lịch sử và xã
hội”.
Nhà văn, nhà viết kịch Lộng Chương - Phạm Văn Hiền,
người con tài hoa của mảnh đất Hải Dương ấy đã gửi mình vào với đất mẹ nhưng
nhân cách, sự nghiệp sáng tác và những đóng góp của ông vẫn luôn in dấu sâu đậm
trong tâm thức nhiều thế hệ nghệ sỹ, khán thính giả yêu văn học nghệ thuật hôm
nay. Sẽ thật trọn nghĩa vẹn tình nếu tên ông - Lộng Chương được lấy làm tên cho
một con đường trên mảnh đất Hải Dương yêu dấu.
(*) Hội thảo tổ chức ngày
11/9/2014 tại trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật Hải Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét