Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

NVK LÃO THÀNH LỘNG CHƯƠNG VỚI MẢNG ĐỜI LÀM BÁO(*)

            
           Lộng Chương là nhà hoạt động sân khấu tài hoa đa năng, đa dạng. Trong lĩnh vực này, ông không chỉ là Nhà viết kịch, Nhà đạo diễn, Nhà quản lý, Người Thày, mà ông còn đảm nhiệm nhiều vai “chốt” trên sàn diễn. Với  sự nghiệp sáng tác của mình, ông có cả một kịch mục đáng tự hào gồm mấy trăm vở kịch ngắn dài bao gồm các thể loại: kịch nói, kịch thơ, tuồng, chèo, cải lương... Mấy chục năm qua, giới sân khấu và công chúng trong cả nước đều biết đến Lộng Chương là một Lão tướng trong ngành. Và, tháng 9 năm 2000, Ông vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Nhưng còn một Lộng Chương khác, một tác giả của nhiều tập thơ văn và  phóng sự, ký sự báo chí... mang đầy tính hài hước, chiến đấu, thì mấy ai đã biết.

            Trong bài viết nhỏ này, xin được đi sâu nghiên cứu về mảng hoạt động báo chí của Lộng Chương.
                                                                    *          *          *          
            Lộng Chương sinh năm 1918, tên khai sinh là Phạm Văn Hiền (còn có bút danh là Viên Hán), người thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, gia đình ông đã ra Hà Nội từ 3 đời trước; cùng với sự biến cải của xã hội, nên có thể coi ông là người gốc gác Hà Nội. Ngay thuở thiếu thời, khi còn là học sinh trường Bưởi (Hà Nội), Lộng Chương đã chập chững bước vào nghề diễn kịch và cầm bút.
            Năm 1935, Lộng Chương cho xuất bản tập thơ đầu tiên Mộng Hoa với bút danh Viên Hán, trang đầu có lời đề Tặng Lucie. Nhưng tập thơ đã không mang lại mấy tiếng tăm.
            Sau trận “ra quân” đầu tiên của Mộng Hoa, Viên Hán rút lui để Lộng Chương, Triều Dương, Thiên Tinh xuất hiện với hàng loạt phóng sự đăng trên các báo Đông Pháp (khi Nhật, vào đổi tên là Đông Phát) và báo Sinh Lực những năm 1938 - 1942. Đó là các bài phóng sự: Ba chàng thanh niên ấy, Công chức, Đói, Sống trên đống rác, Ngục đời…; truyện Vô tư và nhiều truyện ngắn khác. Số báo đăng phóng sự Ngục đời đã bị Sở Liêm phóng Pháp tịch thu.
            Hầu thánh được Nhà xuất bản Cộng Lực (Hà Nội) xuất bản năm 1942, là tiểu thuyết phóng sự dài gần 200 trang. Bằng ngòi bút trào lộng thiên bẩm, trong "Hầu thánh", Lộng Chương  đề cập đến một vấn đề luôn là thời sự của mọi giai đoạn xã hội - vấn đề tín ngưỡng, tuy câu chuyện xảy ra từ những năm 1930 - 1940. Lộng Chương mô tả cuộc sống của các bà, các cô ở  giới trung lưu và giàu có tại Hà Nội lúc đó. Họ tin vào sức mạnh của đồng tiền, cúng tiền vào các chùa chiền, đền miếu, càng cúng nhiều càng cho là "thành tâm" với phật - thánh, để cầu xin sự "phù hộ độ trì" cho họ làm ăn phát đạt, buôn may, bán đắt. Từ sự mù quáng đó, xã hội đẻ ra một loạt người ăn bám, bịp bợm, sống nhờ  vào mê tín, dị đoan. Đó là các ông đồng, bà cốt, cung văn, thày bói, thày cúng... Và cũng chính từ chuyện buôn thần bán thánh này đã gây cho nhiều gia đình điêu đứng về kinh tế, bại hoại về gia phong, tan nát trong quan hệ ruột thịt.
            Nội dung của Hầu thánh đến nay vẫn mang nguyên vẹn tính thời sự - một vấn đề rất quan trọng mà báo chí quan tâm đề cập. Hầu thánh chưa phải là tác phẩm tiêu biểu đứng đầu thể loại phóng sự, song nó đã được đánh giá cao. Năm 1990, Nhà xuất bản Hà Nội đã tái bản Hầu thánh. Năm 1997 và 2000 Nhà Xuất bản Văn học tái bản tác phẩm này trong Kịch Lộng ChươngTuyển tập phóng sự các nhà văn hiện đại.
            Trong thời gian viết Hầu thánh, Lộng Chương làm điều chế viên hoá học tại Phủ Toàn quyền. Những năm sau đó, ông đã tham gia hoạt động truyền bá chữ quốc ngữ và hoạt động trong các tổ chức tuyên truyền bí mật  của Việt Minh. Những hoạt động trong giai đoạn này của Lộng Chương chưa hẳn là hành động giác ngộ cách mạng thực sự. Có thể nhận định rằng, những hoạt động đó chỉ là bước đi ban đầu để tìm đến con đường cách mạng, phục vụ cách mạng của ông. Nhưng cũng vì vậy mà ngòi bút ông càng có điều kiện thuận lợi để phản ánh thời cuộc, bằng các thể loại văn thơ, báo chí khác nhau. Rất tiếc, hầu hết những bài viết, sáng tác trong giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp, chỉ còn lưu giữ được một phần tại gia đình và kho lưu trữ Nhà nước, Thư viện Quốc gia. Số còn lại đã thất lạc, do thời gian quá lâu, do những biến cố của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ; do cuộc sống lưu động nay đây, mai đó của ông để bám sát thực tiễn cách mạng diễn ra hàng ngày hàng giờ; nhằm phản ánh kịp thời yêu cầu bức thiết đối với những người làm báo, viết văn thời bấy giờ.
            Ngay từ những ngày đầu sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, nhằm phát huy sở trường và cũng là phù hợp yêu cầu của cách mạng, Lộng Chương tham gia hoạt động trong các ban kịch và trở thành một trong số người đóng vai trò chủ chốt của Ban kịch Bình Dân (1945-1946), Đội kịch Duyên Hải (1947), Đội kịch Báo Công Dân (trước là báo Nam Định kháng chiến, 1948-1949). Đồng thời trong cùng giai đoạn, ông phụ trách chuyên mục Phóng sựKịch thời đàm của tờ Công Dân. Tờ Công Dân do Trúc Đường làm chủ bút. Tôn chỉ của tờ báo: Tuyên truyền chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng, kêu gọi đồng bào tham gia tích cực mọi nhiệm vụ của hậu phương, phục vụ tiền tuyến, vạch trần âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của đế quốc và tay sai... Báo được phát hành tại các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình. Một bộ phận bạn đọc quan trọng của báo là đồng bào công giáo các tỉnh này.
            Cùng với những cây bút sắc sảo: Bùi Hạnh Cẩn, Sao Mai, Trần Lê Văn, Phạm Hiển, Trúc Đường... Lộng Chương viết đủ các thể loại: chính luận, ký sự, phóng sự, ca dao, truyện ngắn, kịch ngắn,... để tuyên truyền chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng; đả kích những kẻ cơ hội, hèn nhát chui vào hàng ngũ cán bộ kháng chiến để hòng kiếm chác, mưu đồ lợi ích cá nhân; phê phán những tư tưởng lệch lạc trong đội ngũ cán bộ cơ sở... Những bài phóng sự của Lộng Chương đăng nhiều kỳ, từng làm xôn xao dư luận thời bấy giờ. Đó là phóng sự: Đò dọc, Muối, đăng trên báo Công dân; một loạt phóng sự mang tên Dọc đường kháng chiến, đăng báo Phản Công, báo Hôm nay, trong khoảng thời gian 1948 - 1949. Đặc biệt, phóng sự Đò dọc đã làm dư luận bạn đọc xôn xao một thời gian dài. Trong Đò dọc, Lộng Chương vạch mặt bọn buôn lậu bán gian, đã dùng mọi thủ đoạn sảo quyệt nhằm trốn tránh sự kiểm soát của Chính phủ kháng chiến, để đưa hàng hoá ra - vào giữa hai vùng ta - địch, cốt thu lợi nhuận tối đa. Bọn chúng không chỉ gồm số lái buôn chuyên nghề, còn có cán bộ kháng chiến đứng ra che chở những chuyến hàng lậu này. Và, trên những chuyến đò dọc ấy, thường xảy ra mọi hành vi dâm ô, truỵ lạc, bài bạc, chửi bới, doạ dẫm lẫn nhau. Nhưng, rút cục vì tiền, bọn này vẫn luôn luôn liên kết cùng nhau để thực hiện những chuyến buôn lậu và tìm cách chống lại sự kiểm soát của Chính phủ kháng chiến.
            Bằng những chi tiết thật và sống động, cùng khẩu khí hài thiên bẩm của mình, Lộng Chương đã tạo cho thiên phóng sự Đò dọc (và những phóng sự khác) có sức hấp dẫn đặc biệt. Đạt được thành công ấy, Lộng Chương đã phải cơm nắm, muối vừng để trôi nổi cùng với những chuyến đò dọc hàng tháng trời, để cùng sống "bụi bặm" với những tay "anh chị", "đầu gấu" của các băng nhóm buôn lậu nổi tiếng hồi đó, trước khi ông đặt bút viết.
            Với thời gian sống rất ngắn của các tờ báo này, khối lượng bài viết của Lộng Chương là một đóng góp rất đáng kể.
            Là một trí thức tiểu tư sản, ra đi từ cuộc sống thành thị, rất xa lạ với những người dân chân lấm tay bùn, hai sương một nắng, vậy mà Lộng Chương đã nhanh chóng hoà nhập được với cuộc sống kháng chiến vô cùng gian khổ của dân tộc. Để tuyên truyền chủ trương, , chính sách, đường lối kháng chiến  của Đảng vào cuộc sống nhanh nhất, hiệu quả nhất nhất là đại đa số quần chúng lúc ấy là những người thất học, nhưng lại là lực lượng chính của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, Lộng Chương đã sử dụng ngòi bút của mình hết sức linh hoạt, nhằm chuyển tải nội dung bài viết đến với quần chúng đạt hiệu quả cao nhất. Nên, ngoài văn xuôi, ông còn viết rất nhiều bài thể loại văn vần, ca dao, khiến người đọc, người nghe đều dễ hiểu, dễ nhớ. Ở giai đoạn này, dường như tất cả các cây bút sáng tác có tên tuổi đi theo kháng chiến, đều làm văn vần, ca dao phục vụ cách mạng. Biết rằng chất lượng nghệ thuật của văn vần, ca dao chưa đạt tới độ cần thiết do nhiều nguyên nhân, song những người viết đều hướng tới hiệu quả phục vụ làm tiêu chuẩn hàng đầu. Với báo chí ở vùng Liên khu III lúc ấy, những bài báo bằng văn vần, ca dao từng chiếm phần diện tích không nhỏ trên các số báo. Điều đó đã chứng tỏ sức mạnh riêng của thể loại này. Văn vần, ca dao còn có sức sống mãnh liệt hơn ở chỗ: Nó là thể loại chiếm chỗ gần như tuyệt đối trên hàng ngàn tờ báo tường xuất hiện tại các đơn vị bộ đội, dân công, trường học, các đơn vị dân chính, các tổ chức thanh - thiếu niên ở nông thôn... Thậm chí, nó không chờ tác giả viết ra trên giấy đã tức thời được chuyền khẩu ngay trên đường bộ đội hành quân, dân công tải lương tiếp đạn, trong đêm liên hoan văn nghệ ở khu căn cứ du kích... Biết sử dụng triệt để lợi thế này, từ kháng chiến chống Pháp đến mấy năm đầu hoà bình lập lại trên nửa đất nước, cả khi làm báo chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, Lộng Chương đã viết tới mấy trăm bài báo bằng văn vần, ca dao, phần lớn đã đăng tải trên báo chí hoặc in sách, và tất cả đều được phổ biến rộng rãi bằng các hình thức: hò hát, ngâm vịnh, tấu… Ông viết văn vần, ca dao trong mọi nơi, mọi lúc: Trên đường hành quân ra mặt trận, giữa đêm ngủ bừng tỉnh giấc, trong giờ giải lao trên công trường, trên đồng ruộng khi về "ba cùng" với nông dân... Ông viết bằng nhiệt tình của anh trí thức giác ngộ cách mạng, bằng lương tâm và trách nhiệm công dân, bằng trí thông minh và sự nhạy bén của mình. Viết xong rồi ông tự diễn. Bởi ông vốn là người diễn kịch. Diễn trước bộ đội, dân công, nông dân, công nhân… Căn cứ số bài sưu tầm được, có đến hàng nghìn câu ca của ông còn đó. Ông minh hoạ đường lối kháng chiến - kiến quốc của Đảng và Nhà nước ta: Diệt giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt - một chủ trương lớn từ những năm đầu của cuộc kháng chiến 9 năm. Ông đã từng khẳng định trong bài Khi giặc đến nhà:
                                    "Một khi cướp đã đến nhà
                        Ta không giết nó thì ta chẳng còn ...
                                    ... Đi đâu hỡi bố thằng cu
                        Đàn bà giết giặc có từ gì đâu! ... "
            Còn trong  bài Quyết diệt giặc:
                                    "... Thương nhau ta phải nhủ nhau
                        Đòn gánh, dao bầu cũng giết được Tây ... 
                                    ... Người nách thước, kẻ cầm đao
                        Giết chúng đi nào, giữ lấy xóm thôn
                                    Bảo vệ lúa, giữ vợ con
                        Đừng để giặc dồn vào chỗ lầm than!..."   
            Trong bài hát đối nam nữ tuyên truyền về tăng gia sản xuất, ông viết:
                        Nữ:       "... Sản xuất Chính phủ hô hào
                                    Lại còn tiết kiệm ra sao hỡi chàng ..."
                        Nam:      "... Dân ta kháng chiến đánh Tây
                                    Trường kỳ gian khổ ta rày phải lo
                                                Làm sao ta vẫn ấm no
                                    Lại còn thừa sức cung cho chiến trường"
                        Nữ:       "... Vẫn hay thực túc binh cường
                                    Bộ đội đánh khoẻ vì lương thực nhiều  ..."
                        Nam:       "... Anh nhắn câu này: đập lúa cho nhanh
                                                      Vừa làm vừa học mới tình
                                                Đó là tiết kiệm cô mình rõ chăng?"
            Trong Bài hát đóng thóc:
                              "... Cùng đi với cả dân làng về khu
                                                Quyết tâm nộp thóc vào kho
                                    Đánh Tây, dân đóng thóc cho quân dùng
                                                Tội chi để giặc nó lùng
                                    Nó cướp, nó đốt đã từng nhiều phen ...
                                         ... Một lòng giữ nước giữ nhà
                                    Đóng thuế nông nghiệp mới là người ngoan... "
            Trong bài Ta nhắn lời nhau, Lộng Chương đưa chủ trương hộ đê lồng vào câu chuyện của đôi nam nữ:
                              "... Đánh Tây mà chẳng giữ đê
                        Mưa lũ đổ về, đồng ruộng còn chăng?
                                    Chống nước như chống xâm lăng
                        Ta phải coi rằng quan trọng như nhau ...
                              ... Em cùng anh quyết thi đua
                        Cấy cày vụ mùa, trừ giặc, hộ đê ..."
            Hay, tác giả động viên nhân dân dùng hàng nội, thực chất là động viên mọi người phát triển nghề cổ truyền của quê hương:
                             "... Chăn tằm canh cửi nghề nhà
                        Nái, sồi ta dệt, hàng ta ta dùng ..."
            Với nhiệm vụ chống giặc dốt, trong bài Rủ nhau đi học, Lộng Chương viết:
                                    "Rủ nhau đi học i - tờ
                        Đọc báo Cứu quốc, xem thơ cụ Hồ...
                                    ... Ngày xưa học để làm quan
                        Cốt vơ lợi lộc túi tham cho đầy
                                    Ngày nay học để chung tay
                        Dựng xây cho đất nước này đẹp tươi..."
            Bài Ba vui tác giả tả tâm tình của đôi trai gái:
                                    "Thấy em anh cũng muốn yêu
                        Nhưng ngại một điều em chẳng cùng anh
                                    Cùng anh đi học bình dân...
                                    ... Nếu mà anh quyết cùng em
                        Thì em đâu quản sớm hôm học hành
                                    Vui biết chữ, lại có anh
                        Vui này ắt hoá ra thành ba vui!..."
       Động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân mặt trận đường 5, Lộng Chương viết:
                            "... Kìa trông giặc chạy trên đường
                        Quân ta truy kích, khôn lường thoát nguy!
                                 Súng dồn vang dội chiến khu
                        Có đoàn Trung Dũng khởi mùa chiến công...
                            ... Lại đây nghe súng làm thơ
                        Nghe anh bộ đội trong mơ cả cười ..."
            Những bài ca dao về chiến thắng Đông Xuân, Lộng Chương viết có đến hơn 100 câu ca ngợi thành tích vang dội của quân dân ta. Ông cũng cảnh báo:
                              "... Chúng còn lồng lộn cắn quàng
                        Âm mưu còn lắm hung hăng còn nhiều
                              ...   Chúng ta cảnh giác đề cao
                        Toàn dân một chí sức nào chuyển lay..."
            Ca ngợi tình nghĩa quân dân thủy chung, động viên nhân dân chăm sóc thương binh - những người đã không tiếc xương máu, hy sinh thân mình cho sự tồn vong của dân tộc - được thể hiện trong bài Tình thương binh:
                             "... Quý anh thức suốt đêm trường bên anh     ...
                                 ...  Anh ơi anh hãy nằm yên
                                    Để vết thương lành, để máu đỡ ra ..."
            Hay trong bài Nhớ ơn:
                           "... Vấn đề báo đáp thương binh thế nào
                                         Vì dân anh đổ máu đào
                                    Non sông quyết giữ ra vào hiểm nguy..."
            Lộng Chương còn sáng tác hàng trăm câu ca dao nguỵ vận, tuyên truyền chính sách khoan hồng của Chính phủ đối với kẻ lầm đường, lạc lối; kêu gọi họ  hãy quay về với quê hương, làm ăn sinh sống lương thiện bên mẹ già, vợ hiền, con thơ; hãy cùng bộ đội ta diệt thù chung:
                             "... Tôi ngoài, anh ở bên trong
                        Đôi ta cùng đánh, diệt xong quân thù ...
                             ... Súng giặc giết giặc anh ơi
                        Trong ngoài cùng đánh hết đời thực dân ...
                             ... Đêm đêm thao thức mẹ già
                        Nghe thôi súng nổ, lệ nhoà mắt nheo ....
                             ... Mình ơi, mẹ bảo mình về
                        Vâng lệnh cụ Hồ trở lại đi thôi!
                                    Giặc Tây chết đến nơi rồi
                        Nổi lên góp sức trổ tài một phen ..."
            Trên đường ra mặt trận, gặp các đoàn dân công tiếp lương, tải đạn, Lộng Chương lập tức viết hàng loạt bài ca dao để động viên tinh thần họ:
                                    "....  Đường xa thì mặc đường xa
                                    Thi đua tiếp vận cũng là giết Tây
                                           Đồn tan, diệt giặc phen này
                                    Gạo chuyển đêm ngày, chiến tích toàn dân...
                                    ... Hoan hô chiến sĩ xe thồ diệt Tây
                                                Diệt Tây không súng cầm tay
                                    Diệt Tây bằng "cái tay ngai" mới tài ...
                                        ...  Chiến trường bộ đội diệt Tây
                                    Lương thực từng ngày tiếp sức ta chuyển lên.
                                                Trường kỳ gian khổ bao nhiêu
                                    Quyết tâm diệt giặc ta đều vượt qua ..."
            Tuyên truyền đường lối văn nghệ cách mạng, Lộng Chương viết:
                                       "... Ngày xưa thơ phú khó khăn
                                    Bây giờ văn nghệ nhân dân đều làm ...
                                       ... Đánh Tây vừa hát vừa hò
                                    Tăng gia khó nhọc làm thơ mới tài ...
                                       ...  Ngày xưa đàn hát là hư
                                    Đàn hát bây giờ góp sức đánh Tây ..."
            Trong ca dao của Lộng Chương, quan điểm giai cấp, quan niệm về tự do dân chủ của Đảng cũng được ông diễn đạt rất dễ hiểu, dễ chấp nhận, khiến cả những người nông dân thất học đều nhập tâm được:
                                        "... Yêu nhau nhắn nhủ đôi lời
                                    Hữu ái giai cấp hiểu thời ra sao?
                                                Tự do dân chủ thế nào
                                    Tự do đâu phải muốn sao thì làm
                                                Dân chủ đâu phải phá ngang
                                    Kỷ luật rõ ràng sao lại chẳng thông!
                                                Chính quyền nay của nhân dân
                                    Làm dân ta phải góp phần dựng xây..."
            Lộng Chương còn viết hàng trăm câu ca dao cảm thông thương xót, động viên nhân dân trước những đau khổ, tang tóc do giặc gây ra, mà ông được chứng kiến:
                                        "... Đất quê hằn vết giặc càn
                                    Giặc thiêu, giặc giết, xóm làng vắng tanh
                                                Tro tàn gió sớm cuốn quanh
                                    Lá khô lác đác vương cành cây khô.
                                                Nhà ai trơ bức tường trơ
                                    Khói lan cỏ cháy, dậu thưa rã rời!
                                                Ngõ sâu thoáng lẻ bóng người ...
                                         ... Căm hờn biết thuở nào khuây..."
            Và ông kêu gọi:
                                         "... Thù sâu lũ giặc hung tàn
                                    Thề đem sức trẻ thi gan phen này..."
            Năm 1954, sau khi Hiệp định đình chiến Giơnevơ được ký kết, quân đội Liên hiệp Pháp câu kết với chính quyền Ngô Đình Diệm âm mưu cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam. Chúng lợi dụng bọn tay sai đội lốt nhà tu, dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, phỉnh phờ, doạ nạt, nhằm lôi kéo đồng bào ta rời bỏ quê hương. Thậm chí, chúng huy động cả trọng pháo, phi cơ, nã đạn, ném bom vào các làng thuộc tỉnh Quảng Bình, buộc đồng bào ta rời bỏ xóm làng, theo chúng vào Nam. Giai đoạn này, tuy không còn làm báo chuyên nghiệp, nhưng Lộng Chương vẫn tức khắc có mặt tại những điểm nóng. Ông vẫn say xông pha như thời kháng chiến 9 năm, không ngại gian nguy, để nắm bắt đầy đủ diễn biến phức tạp của thời cuộc - một đòi hỏi hết sức quan trọng đối với người cầm bút viết báo, viết văn. Trong ký sự Bọn chúng đã triệt hạ thôn Tam Toà để cưỡng ép di cư, Lộng Chương mô tả tỉ mỉ những âm mưu, thủ đoạn, những hành động dã man của giặc đối với người dân thôn Tam Tòa thuộc ngoại vi thị xã Đồng Hới tỉnh Quảng Bình. Đây là một trong những thôn bị tổn thất nặng nề do giặc Pháp tàn phá, triệt hạ. Chúng đã dồn hàng ngàn đồng bào ta phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Chúng ngày đêm đe nẹt, doạ nạt, để buộc họ phải xuống tàu vào Nam. Trước thảm cảnh này, Đảng và Nhà nước ta  chủ trương chống cưỡng ép di cư, được báo chí lên tiếng hưởng ứng tích cực. Lộng Chương đã phản ánh những diễn biến của cuộc cưỡng bức dồn dân dã man này, tố cáo với cả nước và thế giới về âm mưu phá hoại hoà bình, vi phạm Hiệp định đình chiến của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Ký sự của ông được Vụ Thời sự Chính sách ấn hành ngay vào đầu năm 1955. Cũng trong năm này, ông viết ký sự Trên đường di cư vào Nam đã đăng báo và được Nhà xuất bản Văn nghệ ấn hành thành sách. Trong ký sự, ông kể lại cảnh tha hương, bị đoạ đày của những con người khốn khổ trên đường đi Nam. Trên đường đi họ bị dồn nén chật chội, ngột ngạt dưới tàu; bị đánh đập, đói khát, nhiều người đã chết và bị ném xuống biển. Họ là những người bao đời gắn bó thiết tha với quê hương, bản quán, xứ sở, cần cù lao động, chăm chỉ làm ăn, chắt chiu từng hạt thóc, cọng rơm, nay bỗng chốc phải ra đi, "bỏ lại đằng sau cuộc đời hoà bình, hạnh phúc, cuộc đời ấm no mà họ hằng mong ước, đến nay mới đương được hình thành". Ông cũng vạch rõ nguyên nhân gây ra thảm cảnh, đó là "những kẻ dối đạo, lợi dụng danh chúa để thoả mãn lòng gian tham cuồng dại, để làm vừa lòng những tên đế quốc giết người". Bên cạnh đó, Lộng Chương ca ngợi những người cán bộ, bộ đội được cách mạng cử đến giúp đỡ, khuyên giải bà con lầm đường, lạc lối, đang rơi vào cảnh bị đoạ đày, khốn khổ. Ông cũng cho người đọc thấy rõ, trong bất cứ hoàn cảnh nào, hầu hết đồng bào ta đều hướng về cách mạng, hướng về miền Bắc thân yêu.
            Để vận động đồng bào ta chống cưỡng ép di cư, Lộng Chương còn sử dụng hình thức văn vần, ca dao. Trong bài "Bến Kim Đài", ông viết:
                            "... Âm mưu giặc Mỹ kể ra
                        Thật nhiều hiểm độc quỷ ma khôn lường
                                    … Những toan phá hoại hoà bình
                        Những toan chia cắt nước mình dài lâu.
                                    … Gây bao thảm hoạ gian nan
                        Cưỡng người bỏ xóm, bỏ làng, rời quê ...
                             ... Mồ hôi đổ xuống ruộng kia
                        Miếng ăn kề miệng mà lìa sao đang?
                                    Vì đâu xảy nghé tan đàn
                        Vì đâu nên cảnh dở dang thế này?
                                    Rõ ràng bởi lũ tay sai
                        Lấy danh Chúa để chia hai nước mình…”
            Khi tìm hiểu về chủ trương giảm tô giảm tức (1953) rồi sau này tham gia cải cách ruộng đất ở ngoại thành Hà Nội (1956), Lộng Chương cũng sáng tác ca dao để động viên tinh thần đấu tranh của nông dân, chỉ cho họ thấy nguyên nhân nỗi thống khổ là do bọn địa chủ, cường hào ác bá đã bóc lột đến tận xương tuỷ họ, đẩy họ đến cuộc sống cùng cực. Trong cuộc cách mạng “long trời lở đất” - theo cách gọi của thời kỳ ấy, ông đã viết hàng chục bài ca dao, nhiều bài dài hàng trăm câu. Chứng tỏ rằng, ông rất đồng cảm với nỗi khốn cùng của người nông dân, và say sưa vì sự nghiệp giải phóng họ. Trong bài Con ơi mẹ hiểu vì đâu, Lộng Chương nói:
                             "... Căm thù mẹ phải khơi sâu
                        Vì sao mẹ khổ, vì đâu mà nghèo?
                                    Vì đâu nhà rách, vách xiêu
                        Vì đâu nước lọ, cơm niêu nhọc nhằn?
                                    Vì đâu cơ cực quanh năm
                        Vì đâu cơm đụp, áo manh suốt đời?..."
            Và ông đã vui cái vui của dân:
                            "... Từ ngày có ruộng đến nay
                        Gia đình tôi đã được đầy bát cơm.
                                    Vụ này lúa tốt thóc thơm
                        Đàn con lớn khỏe, không còn ủ ê..."
            Từ say sưa hoạt động báo chí, Lộng Chương đã chắt lọc, đúc kết, chọn lựa để sáng tác ra nhiều tác phẩm văn nghệ, đáp ứng kịp thời những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng lúc bấy giờ. Với ông, dù là hoạt động báo chí hay văn nghệ, tính thời sự trong tất cả các tác phẩm của ông đều nổi lên rất rõ. Điều này cũng nói lên Lộng Chương là một nhà báo, một nghệ sĩ có tinh thần trách nhiệm cao trước Tổ quốc và nhân dân, hết sức gắn bó, lăn lộn với phong trào cách mạng, có thái độ dũng cảm khi xông vào những vấn đề mới, nóng bỏng của xã hội. Trong khoảng thời gian từ 1948 - 1954 (kết thúc cuộc kháng chiến 9 năm), Lộng Chương đã sáng tác 17 vở kịch ngắn và dài), một con số rất đáng kể đối với người cầm bút, vừa sáng tác văn nghệ, vừa làm báo và vừa làm công tác quản lý xây dựng phong trào. Những tác phẩm của Lộng Chương, hầu hết đều được các đoàn văn công dàn dựng và biểu diễn trên nhiều tỉnh miền Bắc, từ các cứ địa kháng chiến đến tận mặt trận các chiến dịch: Điện Biên, Tây Bắc...
            Những vở kịch tiêu biểu của Lộng Chương viết về chiến tranh du kích có: Lý Thới (1948), Du kích thôn Đồi (1952), Chiến đấu trong lòng địch (được Giải thưởng Văn học của Hội văn nghệ Việt Nam  1954 - 1955), Đoàn quân tóc trắng (1954); về đề tài chống cưỡng ép di cư có: Giữa đường, Mưu giặc, Ma hiện, Nhỡ chuyến tàu bay...
            Là người làm văn nghệ, hơn ai hết, Lộng Chương hiểu rằng, văn nghệ luôn phải đáp ứng kịp thời những vấn đề cấp bách của xã hội. So với các thể loại văn học nghệ thuật khác, kịch có sức đáp ứng nhanh những yêu cầu tuyên truyền cấp thiết đối với đông đảo quần chúng nhân dân, từ những người có học đến những người chưa biết chữ. Kịch Lộng Chương thường dùng lối nói giản dị, mộc mạc, dễ hiểu. Chính vì thế nội dung mà tác giả định truyền tải dễ đi vào lòng người, đã đem lại những hiệu quả nhất định.
            Thời gian sau chiến tranh, miền Bắc dấy lên phong trào thi đua lao động sản xuất xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước. Các trí thức, văn nghệ sĩ hưởng ứng chủ trương của Đảng đi vào nhà máy, về nông thôn để thực hiện "ba cùng" với  người lao động. Trong một chuyến đi thực tế ở Vũ Thư, Thái Bình, ròng rã hàng tháng trời, Lộng Chương đã trực tiếp cầm cày bừa, gánh phân bón lúa, tát nước, vét nạo mương ngòi... Ông thực sự hoà mình và thấu hiểu cảnh ngộ vất vả, cực nhọc của những con người chân lấm tay bùn. Sống trong thực tế  sinh động đó, Lộng Chương đã sáng tác hàng loạt ca dao để động viên bà con nông dân hăng hái tăng gia sản xuất, phấn khởi, tin tưởng vào cuộc sống mới, tin vào chủ trương hợp tác hoá, xây dựng tổ đổi công mà Chính phủ đề ra. Trong Bài hát được mùa ông viết:
                                         "... Lúa về ngõ xóm xôn xao
                                    Nhịp cười thiếu nữ rạt rào bước chân.
                                                Lúa tròn vai nhỏ thanh tân
                                    Rung rinh gợn sóng vàng sân lúa vàng.
                                                Thoảng bay trong gió nhặt khoan
                                    Thanh thanh tiếng gái, dịu dàng giọng trai..."
            Ông cũng viết nhiều bài ca dao kêu gọi nông dân vỡ đất phá hoang, phục hồi sản xuất, đóng thuế nông nghiệp. Trong bài Lúa ta trĩu hạt có đoạn:
                                        "... Quá mùa thì sớm cấy chiêm
                                    Dẫu rằng khó nhọc chẳng quên câu này:
                                                Mồ hôi đổ xuống luống cày
                                    Lúa ta trĩu hạt, ta xây hoà bình..."
            Bài Hoà bình trở lại:
                                        "... Hoà bình nay đã lập rồi
                                    Rủ nhau rẫy cỏ phục hồi tăng gia...
                                         ... Phá hoang đẩy mạnh con ơi
                                    Cụ Hồ đã dạy mẹ thời vẫn ghi
                                                Lúa ngô đầy đủ một khi
                                    Dân mà no ấm việc gì cũng xong..."
            Hoặc trong Gắn bó một lời:
                                         "... Năm xưa đóng thuế đánh Tây
                                    Năm nay đóng thuế dựng xây hoà bình ...
                                         ... Đôi ta gắn bó một lời:
                                    Thi đua đóng thuế xây đời chúng ta..."
            Mảng làm báo của Lộng Chương trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp gồm phóng sự, ký sự, ca dao, văn vần... tất cả đều đã được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi trong nông dân, bộ đội, dân công... trên các tờ báo: Cứu quốc Liên khu III, Nam Định kháng chiến, Công Dân, Phản Công, Hôm nay, và trên các tờ tin, tờ bướm của các tỉnh thuộc Liên khu III, đến Thanh Hoá - khu IV. Nhiều bài viết của ông còn được in thành sách với các tập: Nông dân đấu tranh, Phát động giảm tô, Vỡ đất phá hoang, Ca dao kháng chiến (2 tập), Kể chuyện chiến dịch Điện Biên... Các tập này đều do Chi hội Văn nghệ Liên khu III và Sở Thông tin Tuyên truyền Liên khu III ấn hành. Sau ngày giải phóng Thủ đô (10-10-1954), báo chí ở Hà Nội thường xuyên đăng tải bài viết của Lộng Chương. Các cơ quan thông tin, văn nghệ cũng in tác phẩm báo chí của ông ở một số tập sách chuyên đề.
            Viết báo theo "chuyên đề" được Lộng Chương theo đuổi trong suốt mấy chục năm sau này, cho tới khi tuổi cao sức yếu mới dừng bút. Bởi ông quá nặng tình với nghề viết báo. Ông đã đến với nghề báo từ thời trai trẻ. Nghề báo đã tạo điều kiện cho ông cắm sâu, hiểu rộng cuộc sống của mọi lớp người. Nghề báo đã giúp ông tích luỹ tư liệu để làm nên nhiều tác phẩm sân khấu nổi tiếng, như: Quẫn, A Nàng, Cửa mở hé, Đôi ngọc lưu ly, Tình sử Loa thành...
            Là một nhà soạn kịch, lại bận rộn nhiều với “chân” Ủy viên Thường vụ, Thường trực Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, nên thời kỳ này Lộng Chương viết báo chỉ với nội dung chuyên ngành sân khấu. Hàng trăm bài viết về sân khấu của ông đã được giới thiệu trên các báo và tạp chí như: Nhân dân, Hànộimới (trước đó là Thủ đô Hà Nội, Thời Mới), Lao Động, Tiền Phong, Văn nghệ, Sân khấu, Điện ảnh...Tập sách Trên mọi nẻo kịch trường của ông gồm 38 bài, được sưu tầm trong số những hàng trăm bài báo đã đăng, mang nội dung chủ yếu là những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu, đánh giá các loại hình nghệ thuật sân khấu, tình hình sân khấu Việt Nam thời gian đã qua và trong hiện tại... Trong số đó có các bài: Tìm về cội nguồn nghệ thuật sân khấu truyền thống, Suy nghĩ về kịch lịch sử, Bàn về phương pháp tự sự trong sáng tác chèo, Sáng tạo trên cơ sở tôn trọng vốn cũ, ... Hài kịch Môlie lần đầu tiên lên sân khấu Việt Nam và đã gặp Chèo, Mấy vấn đề về Trại sáng tác kịch bản sân khấu, Nguồn sinh lực vô tận của nghệ thuật sân khấu, Hội diễn Mùa Xuân với nhiệm vụ đấu tranh thống nhất nước nhà, Cuộc sống và kịch bản, Kịch có bế tắc không?, Bàn về tích cổ viết lại, Để có nhiều kịch bản viết về cuộc sống hôm nay... Đây là tập sách quý hiếm đối với ngành sân khấu. Nó rất bổ ích đối với các nhà hoạt động sân khấu và nghiên cứu nghệ thuật sân khấu. Nếu chỉ đơn thuần là một nhà báo, cho dù có theo dõi chuyên ngành sân khấu, thật khó viết được sâu sắc, đa dạng như tập sách này. Cùng thời gian sống, chỉ có thể là Lộng Chương - một nhà báo tài hoa, nhà hoạt động sân khấu, kịch tác gia lão luyện - mới đủ khả năng "đẻ" ra tập sách mang nội dung như thế.
            Trong bài Tìm về cội nguồn nghệ thuật sân khấu truyền thống (bài nói nhân ngày giỗ Tổ giới ca kịch, năm 1958) có những đoạn: "Nhân ngày giỗ Tổ,... với sự cố gắng sưu tầm trên cơ sở một số tài liệu ít ỏi, phần nhiều qua sự hiểu biết của các bác nghệ nhân lão thành ... chúng tôi xin ôn trình sơ lược phả lục các vị sáng Tổ nghệ thuật sân khấu để... chúng ta tìm gốc, khơi nguồn, phát hiện những bài học của tổ tiên truyền lại...". Với cách "đặt vấn đề" như thế, Lộng Chương sót sa bởi "... đã một thời gian dài hàng nửa thế kỷ, những hình thức nghệ thuật cổ truyền (tuồng, chèo...)... hầu như bị thui chột tàn lụi, nghệ thuật cải lương non trẻ thì bị đẩy xuống vực sâu." Chứng tỏ rằng, Lộng Chương sớm nhận thức đúng về môn nghệ thuật cổ truyền, mà cho đến nay, sau gần nửa thế kỷ, nó hoàn toàn phù hợp đường lối văn nghệ của Đảng ta vạch ra trong các nghị quyết gần đây.
            Và đây là ý kiến của Lộng Chương trong bài Suy nghĩ về kịch lịch sử:
            "Người sáng tác kịch lịch sử, qua cái thế tĩnh của lịch sử, cần khảo cứu kỹ để tìm ra cái thế động, nhằm tạo cho kịch bản một sức sống chân thực với sức thuyết phục mạnh mẽ."
            "... người sáng tác kịch lịch sử mặc nhiên phải ký thác thứ giao kèo tinh thần để bổ sung vào kho tàng truyền thống đó những phát hiện mới, với sự chân xác của từng tình huống, từng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử đã qua."
            "Người viết kịch lịch sử phải là một nhà khảo cổ học, say mê và thận trọng đi sâu nghiên cứu, sưu tầm, phát hiện những cứ liệu vừa chân xác về con người cụ thể, vừa bao quát về từng thời đại lịch sử."
            "Lợi thế cơ bản của người viết kịch lịch sử là có một chỗ đứng lùi xa để nhìn vào một cuộc sống (đề tài) đã tĩnh tại, với những nhân vật đã định hình, để có thể bình tĩnh, tập trung phát hiện và khai thác. Nhưng ngược lại, có một trở ngại cho người viết là, những nhân vật lịch sử không còn nguyên mẫu sống với những nét cụ thể về hình tượng, tính cách, để làm điểm tựa cho người viết, mà chỉ còn là những dung dáng, khuôn mặt trìu tượng, khiến ai muốn khái niệm ra sao thì nên thế! Do đó, nếu vốn liếng của người viết mỏng manh ... thì ngay đến khuôn mặt của những nhân vật lịch sử cũng bị rơi vào một khuôn mẫu chung chung."
            "... chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng khi thấy từ ông Ngô Quyền đến các vị Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ ... (còn nữa) sao mà giống nhau đến thế!? ... như vậy thì sao gọi là sáng tạo nghệ thuật được!"
            "Người viết kịch lịch sử không phải chỉ biết khai thác mở rộng đề tài đơn thuần, ngoài việc ca ngợi lịch sử (có thể là phê phán) còn phải đáp ứng được yêu cầu hiện tại, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng và phát triển mới hôm nay."
            Trong bài Bàn về phương pháp tự sự trong sáng tác chèo, Lộng Chương nói tại Hội nghị tác giả chèo - 1966, như sau:
            Chèo rất có khả năng thể hiện đề tài mới, nhưng cần phải cải tiến để thích ứng với tinh thần, tình cảm và tập tính sinh hoạt của con người ngày nay, cuộc sống ngày nay.
            "... Xử lý, vận dụng phương pháp tự sự trong sáng tác chèo là, người viết phải biết đặt nhân vật vào những tình huống gay cấn, tạo điều kiện cho hành động của nhân vật đi sâu vào mâu thuẫn nội tâm, có vậy nhân vật mới có đất mà hát, mà múa.”
            Vì: "Chèo là một nghệ thuật kể chuyện bằng hát và múa."
            "Cách tự sự trong sáng tác chèo thường liên tục, câu chuyện không bị cắt mạch (như kịch cắt thành hồi, thành màn). Chèo phải được trình bày rõ ràng, mạch lạc, chớ biến thành những hoạt cảnh (sản xuất hay chiến đấu) với một tuyến đi rời rạc, nó sẽ không có sức quyện người xem, mà cũng chẳng thành một thể loại nào cả."
            Nếu không phải là người am hiểu sâu sắc loại hình nghệ thuật chèo, mà chỉ với nhiệt tình không thôi, thì Lộng Chương chẳng thể viết nhiều bài về chèo, bàn tới nhiều mặt thật chi tiết, thật cụ thể của bộ môn nghệ thuật cổ đặc sắc này. Ở bài Để nâng cao giá trị văn học chèo, cần viết lại những tích cũ, ông phân tích một loạt vấn đề, như: Dẹp đám, Giáo đầu, tích và trò, tiếng cười của chèo, tính trữ tình và văn chương chèo...
            Với Hài kịch Môlie lần đầu tiên lên sân khấu Việt Nam, tác giả cho biết:
            Ngày 25 tháng 4 năm 1920, kịch nói Bệnh tưởng - Le malade imaginaire của Môlie nói bằng tiếng Việt, do người Việt diễn, lần đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam, trên sân khấu Nhà Hát lớn thành phố Hà Nội. Dịch giả hài kịch Bệnh tưởng là ông Nguyễn Văn Vĩnh - một nhà báo học nhiều, biết rộng. Người đóng vai Argan - nhân vật bệnh tưởng - đầu tiên là ông Phạm Văn Duyệt (bác ruột nhà viết kịch Lộng Chương - chú giải của người viết) một chuyên gia kế toán (expert comptable), một trí thức tân học, đứng lên nhóm họp bạn bè thành lập đoàn kịch nói tài tử đầu tiên, nằm trong khuôn khổ Hội Khai trí Tiến Đức... Buổi diễn kịch nói đầu tiên của người Việt Nam đã được mấy tờ báo tiếng Pháp (gồm cả tờ tập san kinh tế Bulletin economique) của người Pháp, hồi đó tường thuật lại với thái độ ngạc nhiên và hoan nghênh cổ vũ... Qua một thời gian, nhóm kịch tài tử đã tự giải thể. Và, ông Phạm Văn Duyệt với kinh nghiệm sẵn có, với lòng say mê nghệ thuật, lại đứng ra thành lập ban kịch riêng, thoát ly khỏi Hội Khai trí Tiến Đức, lấy tên là Đoàn Lạc Long (Troupe Lạc Long). Lúc này ông Duyệt được sự hỗ trợ đắc lực của người em ruột là Phạm Văn Hoà - một diễn viên tuồng tài tử, có khả năng diễn xuất trào lộng xuất sắc. Năm 1923, Đoàn Lạc Long ra mắt với 2 vở hài kịch dịch và phóng tác của Môlie: Trưởng giả học làm sangÉp duyên...
            Trên đây là mấy nét về mảng báo viết của Lộng Chương. Còn về báo nói, ông cũng rất "say" làm. Có một thể loại văn nghệ nhưng mang đậm tính chất báo chí, được Lộng Chương viết rất nhiều vào những năm 1960 -1970, để phát hằng tuần trên Đài Tiếng nói Việt Nam -  buổi phát thanh binh vận, đó là Kịch truyền thanh mà ông quen gọi là Kịch tương thanh. Vào thời kỳ ấy, không ai viết được thể loại này với số lượng nhiều đến mức đồ sộ như ông. Theo Giáo sư Hà Văn Cầu - người bạn nghề  thân thiết suốt đời của Lộng Chương - ước tính "số lượng cũng phải tới cả trăm". Cho dù đây là những sáng tác theo yêu cầu của thời cuộc thì với khối lượng đồ sộ ấy, được viết ra trong lúc ông bộn bề với nhiều mảng công tác: quản lý ngành, giảng dạy lý luận, xây dựng phong trào văn nghệ địa phương, viết vở dài hơi,... thì điều đó càng thể hiện ý thức và tinh thần trách nhiệm cao của một người cầm bút. Thời kỳ đất nước còn chia 2 miền, việc tuyên truyền công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và kêu gọi những người lầm đường, lạc lối quay về với Tổ quốc, với nhân dân là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Với phương tiện truyền thông thời ấy, chỉ có sóng phát thanh mới đảm bảo được nhanh nhạy, kịp thời và rộng khắp. Kịch truyền thanh là yêu cầu của Đài đặt ra cho Lộng Chương, nhưng chính ông cũng ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình đối với loại công việc này, nên ông tự nguyện "xẻ mình" làm "người lính xung trận" cho Đài Tiếng nói Việt Nam. Lúc này đã là một nghệ sĩ nổi tiếng, song ông không ngần ngại đến với công chúng bằng những tác phẩm nhỏ, gần như một bài báo. Cốt sao mỗi dòng chữ ông viết ra chuyển tải được đường lối, chính sách của Đảng đến với mọi người, đến với mọi nơi. Đó chính là mục đích của công tác văn hoá, văn nghệ và báo chí - mà ông đã tự nguyện làm người chiến sĩ trên mặt trận này. Đến nay, phần lớn các "tiết mục" tác giả không lưu giữ được; tuy nhiên, ta còn thấy ít nhiều trong sách Kịch Lộng Chương, do Nhà Xuất bản Văn học in năm 1997: Chặn tay chúng lại, Ngô gia náo kịch, Mai sau, Bầu bán, Đêm trắng, Đêm hầm ngầm, Đường đạn thẳng,...
            Với Lộng Chương, về mảng sáng tác kịch, nhiều  nhà nghiên cứu đã nhận định: Toàn bộ những vở kịch của Lộng Chương... phản ánh tương đối đầy đủ thực tế xã hội... Hầu như không có một biến động nào lại không được phản ánh vào những tác phẩm của Lộng Chương... Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản nhất - đặc trưng thời sự của báo chí. Một trong những tác phẩm văn nghệ của ông gây được tiếng vang lớn, đạt được thành công vang dội - đó là hài kịch Quẫn. Quẫn  cùng với vở cải lương A Nàng, đã đem lại cho tác giả vinh dự to lớn: Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000. Ở đây không đi sâu phân tích nghệ thuật trào lộng và tính kịch của Quẫn, mà muốn nói đến tính thời sự, tính thực tiễn. Nếu tác giả không có tư chất của người làm báo, không có khả năng lăn lộn, không có óc quan sát tinh tế, không biết đi tìm cốt lõi của cuộc sống thì Lộng Chương không thể xây dựng được những hình tượng nhân vật như cụ Đại Lợi, ông bà Đại Cát đặc sắc đến thế, tiêu biểu đến thế - họ đại diện cho một tầng lớp không ưa CNXH, tìm cách ngấm ngầm chống đối chính sách Nhà nước trong công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh những năm 1957-1960. Và với ông, bằng vốn sống, bằng trải nghiệm thời gian, bằng sự thông hiểu thế giới tâm lý của tầng lớp mà chính từ đó ông thoát thai, đã giúp ông thành công với Quẫn, tới mức vở được diễn đến hơn hai ngàn đêm trong thời gian hơn hai mươi năm mà công chúng không hề thấy nhàm chán.
            Vì vậy, từ những nghiên cứu về Lộng Chương cho thấy, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông đã gắn bó chặt chẽ với nghề báo. Ông luôn quan niệm rằng: công việc của người nghệ sĩ sáng tác và công việc làm báo không tách rời nhau, mà gắn kết với nhau. Làm báo không những không đánh hỏng tư duy văn học trong ông, mà còn tạo thuận lợi cho ông thêm vốn sống để đạt tới đỉnh cao về sáng tác kịch bản sân khấu. Ngược lại, tư duy văn học đã giúp cho những bài báo của ông trở nên sắc sảo hơn, nhuần nhuyễn hơn. Thời gian làm báo chuyên của Lộng Chương không dài, nhưng cả khi đã là nhà viết kịch, nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng, ông vẫn không ngừng viết báo. Ông viết về những gì ông bắt gặp, ông chứng kiến trên mỗi đoạn đường đời, khi cần thể hiện quan điểm, chính kiến của mình. Ông viết để quảng bá cho ngành sân khấu Việt Nam và nêu kiến nghị về những điều cần làm, cần tháo gỡ để sân khấu Việt Nam vươn lên tầm cao mới. Ông kiên quyết chống lại những tác giả, tác phẩm được sáng tác theo xu hướng lai căng, dị bợm, gàn dở, núp dưới cái gọi là cải cách, gọi là phong cách sáng tác mới "tân cổ giao duyên" mà một thời đã có mặt trên kịch trường nước nhà. Ông kiên quyết giữ tròn trách nhiệm của người nghệ sĩ có tâm huyết, trân trọng giữ gìn tinh hoa di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc được kết tinh từ hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Với Lộng Chương, sự hoà quyện giữa lao động báo chí và lao động văn nghệ đã tạo nên một con người năng động, xông xáo, nhạy bén và tinh xảo. Trên cả hai lĩnh vực, báo chí và văn nghệ, ông đã đến với công chúng bằng những ngôn từ giản dị, mộc mạc, hài hước và hóm hỉnh, với thái độ chân thành và cởi mở. Sự giản dị và dễ hiểu trong ngôn từ của ông đã đạt được hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền, đã thực hiện đúng tinh thần của câu nói "viết nói như thường" -  được coi là một tuyên ngôn trong hoạt động viết báo của Trương Vĩnh Ký - Giám đốc  tờ báo tiếng Việt đầu tiên, người được suy tôn là ông tổ nghề báo Việt Nam. Tinh thần của câu nói đó đã được Lộng Chương quán triệt và thực hiện triệt để trong viết báo và cả trong sáng tác của mình.
            Lộng Chương đã thực sự thành công với cả hai nghề: sáng tác kịch và viết báo, cho dù người đời chỉ biết rõ ông là nhà viết kịch, nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng. Nhà nghiên cứu sân khấu - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng viết về mảng hoạt động sân khấu của ông như sau:
            ... Đội ngũ văn nghệ sĩ Cách mạng", trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, thế hệ những nghệ sĩ như Lộng Chương, Học Phi, Bửu Tiến, Nguyễn Văn Niêm,... là thế hệ kịch tác gia đầu tiên - những bậc tiên chỉ của giới viết kịch ... Tên tuổi Lộng Chương gắn liền với vở Quẫn và gắn liền với hài kịch hiện đại... ông là danh thủ hài kịch ... người có đóng góp hàng đầu cho thể loại hài kịch Việt Nam hiện đại.
            Còn với nghề báo, Lộng Chương chỉ chính thức "ăn cơm" nghề này vài năm, song với số lượng bài ông viết ra đến mấy trăm, cũng đáng để giới ký giả nể mặt. Và, chất lượng bài viết của ông thì khỏi nghi ngờ. Ông từng nổi tiếng từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp với một loạt phóng sự, ký sự, ca dao,... Giai đoạn sau, những ai đã biết Lộng Chương, thấy bài báo mang tên ông, sẽ ít khi bỏ qua vì biết rằng, nội dung thế nào cũng có "vấn đề" đáng quan tâm.
             *          *          *
            Sự nghiệp sáng tác kịch của Lộng Chương quá lớn. Hoạt động sân khấu của Lộng Chương quá rộng. Có lẽ vì thế mà mảng hoạt động báo chí của ông bị chìm lấp và lãng quên đi chăng? Nhưng nghiên cứu tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông, phải công bằng mà khẳng định rằng, chất báo chí trong con người Lộng Chương đã hoà quyện, nâng đỡ, tạo điều kiện cho ông vững vàng, tự tin và hết lòng phục vụ suốt đời cho một nền văn học - nghệ thuật chân chính. Đó là nền văn học - nghệ thuật cách mạng, vì sự phát triển xã hội.     
            Lộng Chương không phải là Đảng viên Cộng sản, nhưng cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông là minh chứng hùng hồn về một con người luôn sống vì công bằng và lẽ phải, vì hạnh phúc của nhân dân.
            Để kết thúc bài viết nhỏ này, xin lại dẫn lời Giáo sư Hà Văn Cầu viết về Lộng Chương như sau: ... Con người có thể qua đi, tác phẩm có thể mòn mỏi, song Anh vẫn còn mãi. Cái còn của Anh thuộc về nhân cách, về đạo đức, về ứng xử, về thái độ đối với lịch sử và xã hội.











 (*) - Tiểu luận môn học Lịch sử báo chí Việt Nam - Tác giả Phạm Hồng Thắm, Khóa 2000-2002; Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (Nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)          
- Đã trích đăng một phần trong Tạp chí Người làm báo số Tháng 6 năm 2001; 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét