Nhà văn Hoàng Công Khanh
Cùng
hội cùng thuyền
Nhà văn Hoàng Công Khanh (trái) cùng con rể út NVK Lộng Chương |
Các cụ thân sinh anh có một cửa hiệu buôn bán nhỏ ở Hàng Bạc, Hà Nội. Anh ra đời ở đây ngày 5-2-1918, năm con "Rắn" nhưng là con rắn lành; chỉ dùng cái uy mãnh bên ngoài để đe nẹt, cảnh tỉnh và chỉnh đốn những thói kiêu căng, tráo trở, phản bội, hy vọng những kẻ hư đốn ấy sợ mà tự sửa, để sống cho ra người. Hình rắn mà tâm phật. Đúng như cái tên Hiền. Hiền ở bản chất, sắc sảo ở hiện tượng. Trước 1945, anh tốt nghiệp trung học, vào đời ngoài tuổi 20. Là nhân viên phòng Thí nghiệm của sở Thanh tra Nông Lâm, nhưng anh không chuyên tâm nghiên cứu khoai lúa, rừng rú; mà lại chăm chú nghiên cứu thế sự và con người, rồi lần lượt thể hiện những chiêm nghiệm của mình trên báo chí văn học. Khuynh hướng hiện thực phê phán bằng bút pháp trào lộng thấp thoáng trong tập tiểu thuyết đầu tay "Hầu Thánh" của anh. Và nó sắc nét dần, định hình dần, từ tia chớp loé trở thành sấm sét sau này dưới vòm trời sân khấu. Chúng tôi sống bên nhau tuy thời gian có ngắt quãng, tôi vẫn là một trong số bạn bè đã chia sẻ cùng anh ít nhiều vui buồn, thành bại đáng cười, nên khóc, trên sàn diễn và cả trong cuộc đời.
Ở chung
một nhà
Đó là đầu 1949. Nhóm kịch chúng tôi tổ chức hai
đêm công diễn ở thị trấn Đống Năm thuộc Thái Bình. Đống Năm ở ngay
trên đường số 10, gần mặt trận Hải - Kiến khoảng 20 km. Sở Văn Hoá
Thông Tin khu III (tả ngạn sông Hồng) đã có một tốp kịch nhỏ do Lê
Đại Thanh phụ trách, lưu diễn trong các xã để tuyên truyền vận động nhân dân đóng
góp và tham gia kháng chiến. Chỉ là những buổi biểu diễn đột kích,
đánh nhanh, rút nhanh. Lần này chúng tôi liều mạng diễn công khai, có
quảng cáo và bán vé hẳn hoi, dưới danh nghĩa của nhóm kịch Sở Thông
Tin và Hội Văn Hoá - Văn Nghệ khu III. Lộng Chương, Trần Lê Văn, Phạm
Tăng từ Nam Định vượt sông Hồng sang hợp sức với anh em ở Thái Bình
gồm Trần Trọng Khang, Trần Phúc, Tống Ngọc và tôi. Nam thì đủ nhưng
nữ diễn viên thì khó kiếm. Rất may, hai chị Tuyết Khanh (vợ Hoàng
Cầm) và Kiều Liên, lúc đó đương là hai nữ chủ quán café ở thị trấn
Phụ Dực, Lộng Chương đã tìm đến thuyết phục. Hai chị tạm khép cửa
liếp, xách ví son phấn riêng đến với nhóm, vừa để dùng vừa viện trợ
thêm cho bạn diễn vẽ mày trát mặt. Án kịch của nhóm có tới 11 vở.
Trong 5 kịch dài (Những người ở lại
của Nguyễn Huy Tưởng, Người dân quân
của Vi Huyền Đắc, Trùm kèn và Hầm thị trấn của Lộng Chương, Ở chung một nhà của tôi), Lộng Chương
với tư cách đạo diễn của nhóm, anh đề nghị chọn Ở chung một nhà làm thí điểm.
Quảng cáo Chương trình biểu diễn của Nhóm Văn nghệ Hải Phòng tại Thị trấn Quỳnh Côi (Thái Bình) |
Nếu thành công thì sẽ nhắc dần đến các vở khác. Tự xét tay bút mình còn yếu, tôi muốn rút, Lộng Chương bảo:
- Không, cứ diễn vở ấy. Nội dung nó hợp với lúc
này hơn cả.
"Ở
chung một nhà" đặt ra vấn đề gì? Đó là một số người đại diện
cho những tầng lớp khác nhau, thân phận khác nhau, vừa hoà hợp vừa
xung khắc nhau trước luồng gió mạnh của Cách mạng 19-8. Kẻ theo,
người chống, họ quằn quại văng vật, cuối cùng phân hoá thành hai thế
lực đối kháng. Nhưng cuối cùng, dù muốn hay không, họ đều bị cuốn
đi, hoặc hoà nhập thuận chiều vào dòng chảy của thời đại, hoặc táp
thành những đống rác, hoặc bị ném văng
lên bờ, chơ vơ bên rìa cuộc sống vận động không ngừng. Tất cả những
con người ấy đều ngẫu nhiên ở chung dưới một mái nhà: Tượng trưng cho
mọi tầng lớp người sống chung trong một đất nước(I).
Thấy tôi vẫn băn khoăn, Lộng Chương nói tiếp:
- Thực lòng, trong giai đoạn này, mình muốn thử
sức ở công việc đạo diễn là chính. Đạo diễn vở người khác thì ít
nhiều cũng rút ra được một cái gì đấy, hoặc hay hoặc dở, làm giàu
cho cách nhìn và viết của mình.
Lộng
Chương vỗ vai tôi:
- Hãy tin mình! Mình sẽ vừa đạo diễn vừa đóng
vai chính cùng với Tuyết Khanh. Chúng mình sẽ hợp sức với cậu nâng
kịch bản lên ít nhất cũng ở mức có thể chấp nhận được.
Quảng cáo Chương trình biểu diễn của Nhóm Văn nghệ Hải Phòng tại Thị trấn Quỳnh Côi (Thái Bình) |
Lộng Chương đã đánh vật với kịch bản. Sửa và tập đều cùng mệt nhoài. Cuối cùng, những cây đèn manchon cũng sáng xanh trong ngôi đình lớn được kê dọn thành sân khấu tạm thời. Chúng tôi đã lầm to. Hăng máu quá làm chúng tôi mờ mắt. Ngoài số đại biểu, chỉ có những dân từ thành thị tản cư đến xem, nửa vì tò mò, nửa có ý ủng hộ. Còn dân chúng sở tại phần nhiều là nông dân chỉ thích cải lương và chèo, chưa quen với kịch. Nên họ chỉ đến nghiêng ngó những tấm quảng cáo viết tay to tướng dán trước các quán thị trấn và trước cửa đình rồi bỏ đi. Tác dụng tinh thần không thể đo được, nhưng chắc chắn là không đáng kể; còn kết quả về kinh tế thì thất bại. Thu không đủ bù chi, vốn cũng rất eo hẹp. Không biết Lộng Chương làm cách nào (xuất tiền túi ra, hay vay mượn, hay được ai đó hảo tâm ủng hộ) đã mau trả hết các khoản nợ chính: tiền thuê làm phông cảnh theo thiết kế của hoạ sĩ Phạm Tăng, tiền thuê dầu đèn, thuê người phục vụ tạp dịch cho hai đêm diễn. Còn tiền túi diễn viên ứng ra trước để ăn tập, tiêu pha trong những ngày tập dượt và trình diễn đều mất hút. Gay nhất là số anh em ở Nam Định, đã phải vượt từ hữu ngạn sang tả ngạn sông Hồng, nay phải quay về với số tiền còn lại chỉ đủ để chi phí đò giang và ăn bánh chưng, khoai luộc đi đường. Quẫn bách như thế, nhưng vốn tính thích đùa, lại cũng rất mẫn tiệp trong cách làm thơ trào phúng, Trần Lê Văn ứng khẩu mấy câu trong buổi chia tay:
Phen này đếch
"ở chung nhà" nữa!
Ông ở riêng ông, một xóm làng!
Đe thế thôi, chứ đến lần tổ chức biểu diễn sau,
các anh lại vượt sông Hồng sang ngay với nhóm. Mới vấp váp thế mà
đã cạch không chơi với nhau, cắt đứt cái duyên nghiệp văn chương thế
nào được!
Sự cố
sân khấu
Chỉ sau hai tháng, nhóm chúng tôi lại tổ chức luôn
hai buổi dạ hội ở thị trấn Quỳnh Côi - Thái Bình. Lần này do Ban Mùa Đông Binh
Sĩ Hải Phòng bảo trợ. Đã có quỹ
tài trợ nên chúng tôi thư tâm. Rút kinh nghiệm, chúng tôi đưa ra ba kịch
ngắn được viết tương đối kĩ: Lý Thới
của Lộng Chương, Bộ Ba của Trần
Lê Văn, và Màn Cửa Vàng của tôi.
Số lượng vai kịch không nhiều nhưng diễn viên chính thiếu. Thế là tác
giả kịch bản cũng phải vào cuộc. Trần Lê Văn đóng vai thi sĩ Hoài
Ngông trong Bộ Ba của anh. Có
người đóng hai vai như Tống Ngọc, Trần Trọng Khang. Tôi làm anh nhắc
vở. Riêng Lộng Chương làm đạo diễn kiêm luôn ba vai chính của ba vở (Lý
Thới trong Lý Thới của anh, Ba
Vẹt trong Bộ Ba của Trần Lê Văn
và bác sĩ Đường trong Màn Cửa Vàng
của tôi). Tình hình co kéo, lấn bấn - như chạy Show tại chỗ - làm cố
vấn chuyên môn Vi Huyền Đắc lo lắng ra mặt. Lộng Chương nói chắc nịch:
-Yên trí! Sẽ ổn cả thôi!
Mà ổn thật. Sẽ là cực kỳ xôm
trò nếu không xẩy ra một bất ngờ. Nguyên trong kịch bản Màn Cửa Vàng, có lớp cần hai nhân
vật cứu thương phải lướt qua sân khấu khoảng một phút. Nghĩ là vai
phụ, ai cũng làm được, lại đương thiếu người, Lộng Chương nhờ một dân
quân ở thị trấn đóng cặp đôi với anh kéo màn là hoạ sĩ
Phạm Tăng. Đến lớp kịch ấy, không thấy anh dân quân đâu. Hoá ra anh
đương ngồi xem cùng khán giả, chờ đến lượt mình nhưng bị các vai diễn
cuốn hút nên quên mất. Hậu trường lúc ấy chỉ còn có tôi và người
kéo màn. Ngoài sân khấu, vai bị thương
nặng đã nằm chờ quá lâu. Bác sĩ Đường (Lộng Chương đóng) năm lần bảy
lượt ghé vào cánh gà giục: "Ra đi! Cứu thương! Ra đi!". Cấp
bách quá, tôi cuống lên, ném vở nhắc, vơ vội lấy cái cáng, kéo tay
Phạm Tăng cùng lao ra sân khấu làm nhiệm vụ. Ở dưới khán giả xôn xao,
cười như nắc nẻ nhưng không biết vì chuyện gì.
Quảng cáo Chương trình biểu diễn của Nhóm Văn nghệ Hải Phòng tại Thị trấn Quỳnh Côi (Thái Bình) |
Sáng hôm sau, Lộng Chương cười cười bảo tôi:
- Này có một khán giả nữ khen vai cáng thương cậu
đóng rất tuyệt.
- Chỉ bịa! Tuyệt ở chỗ nào?
- Ở chỗ cái "cà vạt" xanh có hoa của cậu
ấy.
Tôi
nhớ ra ngay. Vì là người phải giới thiệu đầu tiên cho đêm diễn, nên
tôi đóng hộp chỉnh tề. Trong lúc cập rập, tôi chỉ kịp cởi áo
"vét" vứt lại, còn cái "cà vạt" vẫn lủng lẳng ở
trên cổ, trong vai anh cứu thương.
Vẫn
với nụ cười hóm hỉnh, Lộng Chương ghé tai tôi nói khẽ, kèm theo một
cái nháy mắt:
- Này, cô khản giả ấy còn nói trong vai diễn ấy,
cậu đáng yêu ghê lắm, và ngỏ ý muốn được gặp cậu.
Nửa tin nửa ngờ, tôi rụt rè:
- Cô ấy thế nào?
- Xinh!
- Có biết cô ấy ở đâu không?
- Biết quá đi chứ! Vợ cậu đấy!
Một
miếng kịch, một thủ pháp đột xuất (coup de théatre) rất "Lộng
Chương"!
Đôi
vần tâm sự
Sau
lớp "Tu dưỡng Trần Đăng" ba tháng liền ở Đông Môn (cửa Đông
thành Tây Đô - Thanh Hoá) của tất cả các văn nghệ sĩ Liên khu III, IV và
một số đại biểu ở Hội Văn Nghệ Trung Ương, chúng tôi chia tay nhau đi
mọi ngả: theo một binh đoàn hay một đoàn dân công ra hoả tuyến, về
các hợp tác xã nông nghiệp, một số nhỏ trở về Chi hội của khu
mình, tiếp tục làm báo. Trước đây, tôi với Lộng Chương cùng làm báo
"Phản Công" của Hải Phòng, "Sóng Mới" của Chi hội
Văn Nghệ Khu III, lúc này là tờ "Lúa Mới"! Nhưng chỉ được ít
lâu, chúng tôi lại phải chia tay nhau, mỗi người một nhiệm vụ. Hôm tôi
lên đường, anh lặng lẽ đưa tặng tôi bài thơ do anh làm sau đợt học tập
ở Đông Môn:
Hoài
Hồn lạnh hoang sơ lộng gió lùa
Xa rồi luỹ cũ nếp thành xưa!
Vàng reo
lỡ điệu trao mày lệ
Đường loạn Kim hài lạc hướng mơ!
Đêm
hội Thiên Thai lửa dị kì
Mắt
ngời suối thẳm đổ hàng mi
Nét
hoa ngưng đọng lời xao Xuyến
Đôi
lứa nghiêng sầu mưa biệt ly!
Tiền
thân diễm lệ chuyện Tây Sương
Ngọc
chuốt Thôi - Oanh đẹp dị thường
Luân
hồi hò hẹn đêm giao cảm,
Mây
tóc vương tình trao phấn Hương.
Phấn Hương nào thắm Trác Văn Quân
Rèm
hoa xiêm lả tóc buông trần
Phím
tơ Tư Mã tròn đêm mộng
Ngõ
hạnh cầm ca trăng ái ân!
Tặng
ngọc ai cầm một thuở xa
Khi
lời mắt ngỏ ý phong ba
Hợp
hoan đâu kể niềm ly cách
Ta của
Em rồi! Em của ta!
Mưa tháng hai, 1951
(Nhớ đêm Màn Cửa
Vàng Mùa
giải phóng biên giới)
Lộng Chương ít làm những bài thơ lẻ. Có lẽ đây
là bài thơ tâm tình độc nhất của anh đưa cho tôi sau buổi tái diễn Màn Cửa Vàng trong đêm liên hoan
cuối cùng của lớp học tu dưỡng Đông Môn. Tôi hiểu Lộng Chương. Anh là
người nghiêm chỉnh cả trên sân khấu và ngoài đời. Đây không phải là
bài thơ tình, nhớ nhung một nàng Kiều bằng xương bằng thịt nào đó.
Đây là nỗi nhớ sân khấu anh gửi vào chữ Hoài đầu đề. Các chữ Vàng
trong thơ là kịch Màn Cửa Vàng, Đường là vai bác sĩ Đường, Hương
tức vai Quỳnh Hương (cũng là tên thật của nữ diễn viên đóng đôi với
anh), Xuyến là vai nữ y tá Xuyến
(cũng là tên thật, nguyên là thư kí văn thư của Chi hội Văn nghệ Khu III).
Những thiên tình sử Thôi Oanh Oanh -
Trương Văn Thụy và Trác Văn Quân -
Tư Mã Tương Như là biểu trưng cho những cuộc tình hợp tan trên sân khấu và cuộc đời. Đến
chữ Em cuối bài thơ chính là duyên nghiệp sân khấu buộc
lấy anh. Cũng là lời nguyền của anh: chung thuỷ với Em ấy trọn
đời.
Điểm
tựa - Đòn bẩy
Trước
mặt tôi là "Tập kịch Lông Chương" đồ sộ, khổ 19x28, 932 trang,
chữ nhỏ (Nhà xuất bản Văn học 1997). Mục lục ghi 54 kịch bản, hầu
hết đã được trình diễn trên các sân khấu lớn trong nước. Thực ra đây
chỉ là số mà Phạm Hồng Thắm và Giang Trung Học (con gái và con rể
anh) thu thập rồi đem in trong số vài trăm kịch bản đã mất hoặc còn
tản mát đâu đó qua hai cuộc kháng chiến. Nếu không vì những công việc
đạo diễn, lập các đoàn kịch (Thanh Hoá, Thanh Niên, Công Nhân…) và làm
báo thì chắc chắn anh không chịu nhường bước cho tác giả viết nhiều
kịch bản nhất nhì trên thế giới, người Tây Ban Nha: Lopé de Véga (trên
500 tác phẩm). Rất mừng là trong số 54 kịch bản còn lại, có đủ
những tác phẩm hài kịch xuất sắc nhất của anh: Quẫn, Cửa mở hé, Quẫy, Hỏi vợ, Trở nồm, Ngã v.v. Có vở diễn trên hàng nghìn đêm; báo chí giới
thiệu, phẩm bình, ngợi khen nhiều năm trời. Cũng trong tập kịch bề
thế này, ở phần cuối, bạn bè, học trò đã viết khá đầy đủ về hoạt
động sân khấu hết mình của anh, đặc biệt là giai đoạn từ sau hoà
bình 1954 trở đi. Xung lực sáng tác mạnh mẽ, dồi dào, chất lượng
kịch bản sắc sảo, cuốn hút, nghệ thuật điều tiết tài tình. Tôi chỉ
thêm vào đôi chút góp phần. Lộng Chương toàn tâm toàn ý cho sân khấu
bởi anh có một điểm tựa vững chắc. Đó là chị Nguyễn Thị Quy, vợ
anh, người đã thay anh "nuôi đủ tám con với một chồng", người
đã gánh vác mọi lo toan gia đình, là cái bến bình yên để con tàu anh
neo đậu, tránh gió bão, lại là lực đẩy nó phóng ra khơi khi biển
lặng sóng ngừng. Chị vừa là điểm tựa vừa là đòn bẩy. Thành công của
anh có công lao của chị! Phạm Hồng Thắm, con gái thứ bảy của anh,
trong bài viết Người đứng sau sân
khấu: Mẹ con ở cuối tập kịch, ước mong rằng tất cả mọi tác
phẩm của cha cô "khi hai chữ Lộng Chương đặt dưới tên kịch bản,
thì bao giờ cũng phải có tên của một đồng tác giả - đó là Mẹ
con". Tôi xin thêm, với hai giải thưởng: Giải thưởng Hội Nghệ Sĩ
Sân Khấu Việt Nam và Giải thưởng Hồ Chí Minh cao quý, dù không có văn
bản nào quy định, ta cũng cứ nên tự hiểu rằng: Chị Nguyễn Thị Quy đã làm
nên một nửa thành công của Lộng Chương. Thế mới thấu tình đạt lí, mới
trọn lẽ công bằng!
_____________________________
(*) - Báo Văn nghệ
số 28 - 14.7.2001; Sách “Lộng Chương
trên mọi nẻo kịch trường”, Nxb Sân khấu, 2003
(I) Sau 1954, về Hà Nội, Lộng Chương và tôi
cùng được đọc kịch bản Dưới mái nhà Thượng Hải của tác giả Trung Quốc Hạ Diễn, có
nội dung tương tự Ở chung một
nhà. Tất nhiên Hạ Diễn (người cùng
lớp với Tào Ngu, Điền Hán, Trần Bạch Trần, Quách Mạt Nhược...) viết
hay hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét