Hoài
Việt
Ký họa Lộng Chương |
Anh tên khai sinh là Phạm Văn Hiền.
Thời Tây, anh là điều chế viên ở Phủ Toàn quyền, chuyên ngành hóa học - một
quan Phán. Nhưng rồi cách mạng nổ ra, quan
Phán Hiền nhập vào cách mạng. Từ đó, người ta biết anh dưới cái tên bút
danh Lộng Chương. Bút danh này đã được ký dưới cuốn tiểu thuyết phóng sự Hầu
thánh, song sau cách mạng thì nó đứng ở trên đầu các vở kịch ngắn, kịch dài nhiều
hơn.
Tôi biết tên anh từ thuở báo Công
Dân (tỉnh Nam Định - Liên khu III) cùng với tên các anh Hoàng Quyết, Trúc Đường,
Bùi Hạnh Cẩn, Trần Lê Văn… Nhưng, mãi sau ngày hòa bình lập lại tôi mới được
làm quen với anh.
Ngày đó, tôi và anh Văn Tâm được cử
phụ trách Đoàn kịch Tháng Năm của ngành Giáo dục. Chưa có mấy kinh nghiệm sân
khấu nên tôi phải tìm đến với anh. Đọc một
tác phẩm văn học, dù là kiệt tác, thì chỉ có riêng một mình mình khóc hay cười.
Song một kịch bản được dựng trên sàn gỗ, trong một lúc có thể đánh động đến
hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng mấy ngàn trái tim, khối óc… Cảm thông với
tình yêu sân khấu của tôi, anh đã sốt sắng giúp.
Tôi thường sang nhà chờ anh cùng ra Câu lạc bộ Thanh Niên ở hồ Thiền Quang,
xem anh hướng dẫn cho các bạn trẻ Hà Nội tập kịch. Số người này thuộc nhiều tầng
lớp khác nhau: Công nhân xí nghiệp nhà máy có, thanh niên học sinh có, tiểu
viên chức có, cán bộ nhiều cơ quan Trung ương hoặc địa phương có. Đôi khi những
người có máu sân khấu ở vài xã ngoại
thành hay tỉnh lân cận cũng tìm đến. Từ lớp học ấy, sau này có những tên tuổi lớn
như: Đoàn Dũng, Doãn Hoàng Giang, Trọng Khôi, Hoàng Thanh Giang… Tôi cứ ngồi vậy
hàng mấy tiếng đồng hồ xem cung cách làm
ăn của anh. Có lúc anh lấy một trích đoạn trong vở ra cho tập. Có khi là một
kịch ngắn. Anh để học viên tự chọn vai. Rồi anh gọi từng người đến hỏi lý do của
sự lựa chọn. Anh hỏi về lý lịch, tâm lý, về cách họ thể hiện tính cách nhân vật
đó. Các học viên biểu diễn rồi, anh để anh chị em trong đoàn góp ý. Sau đó, dựa
vào sự góp ý, anh mời họ làm lại. Nhiều lúc anh đứng ra thị phạm luôn. Tôi học
được ở anh cái say mê, sự lao động không mệt mỏi trong diễn tập. Và đấy là một
sự lao động không có lương, tự nguyện hoàn toàn. Mọi người biết vậy nên dù anh
có gắt gỏng, họ vẫn rất thương quý anh.
Lần đến mừng thọ anh ở nhà riêng 47
Hàm Long, từ trong nhà ra ngoài hiên, chiếu trải trên nền đất nện kín khắp; bạn
bè và học viên sân khấu Hà Nội, Hà Tây, Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa… ngồi la
liệt; già có, trẻ có, Kịch nói, Chèo, Múa rối… đủ cả.
Học được một số ngón nghề của anh,
chúng tôi về dựng vở Trác Văn Quân của
cụ Quách Mạc Nhược. Tất nhiên có mời Thày
Chương đến góp ý. Anh là người hay nói thẳng thừng, song lần đó hay chỉ nhẹ
nhàng gảy ra vài điểm chưa đạt. Với riêng tôi, anh nổi máu nghệ sĩ, nói không tiếc lời. Từ anh, tôi thấm thía: Trong nghệ thuật không thể dùng cách nói lấy
lòng, làm như thế là giết chết nghệ thuật. Trước lúc đến với anh, tôi cũng
đã có tập tọng viết một vài vở kịch ngắn. Rồi được anh giới thiệu đến Đài Tiếng
nói Việt Nam. Tôi quen các anh Trần Thông Côn, Vũ Hà (Công đoàn), Vũ Hà (Tóc bạc)
từ đấy. Dần dà, tôi đi vào kịch thơ. Vở kịch thơ đầu tiên Ngô Thì Nhậm do Đoàn Kịch nói Hà Tây dàn dựng. Tôi đề nghị Đoàn mời
anh Lộng Chương làm đạo diễn. Anh Chương, sau khi trao đổi với tôi, đã mời anh
Nguyễn Đức Nùng làm họa sĩ trang trí và anh Bùi Công Kỳ viết nhạc. Anh Chương lại
gợi cho tôi mời anh Hoàng Cầm hướng dẫn cho anh chị em diễn viên ngâm thơ. Từ Kịch
nói chuyển thể dựng kịch thơ không phải dễ. Vậy nhưng rồi cũng ra mắt khán giả
được. Diễn viên Trần Tư Trắc trong vai Ngô Thì Nhậm, diễn rất khá. Một số diễn
viên nữ cũng vậy. Có lần, anh Chương và tôi đạp xe đạp vào thôn Huyền Kỳ, rủ
anh Nguyễn Đức Nùng xuống Thạch Bích xem đoàn tập (Lúc này Đoàn Kịch nói Hà Tây
sơ tán về nhà thờ họ đạo ở Thạch Bích). Anh em chúng tôi đi đến Hà Đông thì máy
bay Mỹ ném bom khu xóm ở gần Huyền Kỳ. Khi đi qua xóm, khói còn bốc lên nghi
ngút. Anh Chương đùa: Giá mà cả ba chúng
mình đi trúng vào lúc nó cả cái thì
văn học nghệ thuật nước nhà cũng khá thiệt đấy ông nhỉ?
(rót nước) NVK Bửu Tiến (ngồi bên trái), NVK Thế Lữ (ngồi bên phải)
Anh đùa như vậy còn nghiêm chỉnh đấy. Lộng Chương mà đùa ác thì cứ gọi là hết… đất sống! Không ai quên vở Quẫn của anh đánh tư sản. Khi Đoàn Kịch Trung ương (Nay là Nhà hát Kịch Việt Nam) dựng vở Quẫn, anh đã rất thú vị là mời được chị Song Kim đóng vai cụ Đại Lợi. Anh nói với tôi: Cụ Đại Lợi là hình ảnh của một người nhà đã cắm sâu vào đầu óc tôi từ lâu. Bà Kim có cái mông sao mà giống thế!
NVK Lộng Chương (Ngồi đội mũ) đến chơi NVK Học Phi |
Anh đùa như vậy còn nghiêm chỉnh đấy. Lộng Chương mà đùa ác thì cứ gọi là hết… đất sống! Không ai quên vở Quẫn của anh đánh tư sản. Khi Đoàn Kịch Trung ương (Nay là Nhà hát Kịch Việt Nam) dựng vở Quẫn, anh đã rất thú vị là mời được chị Song Kim đóng vai cụ Đại Lợi. Anh nói với tôi: Cụ Đại Lợi là hình ảnh của một người nhà đã cắm sâu vào đầu óc tôi từ lâu. Bà Kim có cái mông sao mà giống thế!
Tiếp sau Quẫn là Cửa mở hé. Cả hai
vở, tiếng cười của anh khá… ác. Nhưng
chưa ai biết anh còn ôm ấp viết một vở lấy tên là Ngã. Ngã có nhiều nghĩa lắm.
Nhưng tôi không dám tiết lộ, cũng như độ mươi năm sau khi nổi tiếng, anh đã làm
thơ tự giễu mình cũng kha khá... ác.
Phải nói rằng trong sự nghiệp của đời
anh (viết trên 100 vở Kịch, Chèo, múa rối ngắn dài) có sự đóng góp không nhỏ của
chị Lộng Chương. Người phụ nữ hiền thục này không kỳ quản, không tiếc sức; đã
ra công phục vụ bạn bè của chồng, cúc cung tận tụy phụng sự chồng; kể cả những
lúc khó khăn, bạn bè đến chỉ có nhúm mì nước, chén rượu nhạt. Anh Chương về già
hay rượu. Lúc đến chơi, bao giờ anh cũng lôi ra trong ngăn tủ một be kiểu dẹt
như chai Whisky, trong đó có loại rượu ngang
nổi tiếng. Anh bảo: Tiếc ai thì tiếc, chứ với Niêm, Trần Cồn và ông thì không
thể giấu loại tiên tửu này được.
Mấy năm gần đây, chị Chương không
dám cho anh uống thứ nước trắng mà Văn Cao gọi là nước cơm (nước uống thay cơm) ấy nữa. Chị thay bằng Vang Thăng Long
cho anh dùng.
Ở Sài Gòn ra, tôi đến thăm anh, anh
cứ hỏi đi hỏi lại: Bây giờ ở đâu. Không
còn ở Hàm Long nữa phải không? Hôm nào nắng dẫn tớ lại chơi với nhé. Đi ba chân
mà…
Rồi anh than thở: Tiếc thật, cái Câu lạc bộ Kịch thơ của bọn
mình không thành. Trần Huyền Trân ngã rồi ngã luôn. Trúc Quỳnh cũng không còn…
Anh ngước lên, đôi mắt đỏ tia máu,
mơ màng: Cả cái Đoàn Chèo Cổ Phong của bọn
này mà ông thường gặp ở nhà tôi - Nguyễn Đình Hàm, Lưu Quang Thuận, Trần Huyền
Trân đi rồi. Ông Cầu cũng râu ria như ông lão. Cụ Mẫm, cụ Mược, cụ Trùm Thịnh,
chị Hoa Tâm, Dịu Hương… xa rồi. Xa rồi ông ạ!
Rồi, anh đưa cho tôi chén vang đỏ, gật
gù ngâm câu thơ ghép: Khuyến quân cánh tận
nhất bôi tửu. Dữ ngã đồng tiêu vạn cổ sầu(**).
Tôi
nhớ xưa, khi gặp chuyện vui buồn, anh vẫn hay cười, tiếng cười thật ròn. Nhưng
nay, tợp xong hớp vang thì anh lặng lẽ đưa tay lên chùi râu…
(*) Tạp chí Sân khấu, số 6/2002
(**) Khuyên anh uống cho cạn một chén rượu để cùng
tôi quên hết cái sầu vạn cổ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét