NSƯT Vũ Hà
Lộng Chương không chỉ là nhà viết kịch nổi tiếng, ông còn
là nhà họat động sân khấu cách mạng giàu tâm huyết, bền bỉ, đa năng. Ngót bảy
thập niên gắn bó máu thịt với kịch trường nước nhà, cho đến những năm tháng
cuối đời, người nghệ sĩ cao tuổi vẫn vẹn nguyên khát vọng dâng hiến cho sân
khấu Việt Nam, khát vọng được thắp sáng ngay từ thuở thiếu thời.
Ông tên khai sinh là Phạm Văn Hiền, còn có bút danh là
Viên Hán, sinh ngày 5-2-1918 ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang,
Hải Dương.
Hồi nhỏ, mới sáu bảy tuổi cậu bé Hiền đã ngồi dưới hố nhạc Nhà hát
Lớn Hà Nội nhắc vở với người cô, để xem bác ruột của mình diễn những vở Hài
kịch trứ danh của Môlie: nào “Tactuyp”, rồi “Trưởng giả học làm sang”. Phải
chăng không khí kịch trường những năm đầu tiên Kịch nói Việt Nam ra đời, vào
thập niên thứ 2 thế kỷ trước, một không khí say mê đến cuồng nhiệt đã dụ chàng
trai đa cảm, hiếu động ấy đến với kịch nghệ và có “duyên nghiệp” với thể loại
Hài kịch, để sau này có những tác phẩm lừng danh để đời? Cả thời trai trẻ, Lộng
Chương tham gia chơi “Kịch tài tử” với những văn nghệ sĩ, trí thức lịch duyệt
nổi tiếng thời bấy giờ ở Ban kịch Hà Nội, Nhóm kịch Thế Lữ… từng bước lên sân
khấu các rạp Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài, Cải lương hí viện, cả sàn diễn Nhà hát
Lớn Hà Nội. Phong cách vừa là nhà biên kịch, vừa là Thày tuồng, vừa là Nghệ sĩ
biểu diễn của nền kịch nghệ tiền chiến đã tạo nên tố chất Lộng Chương trở thành
Kịch tác gia kiêm Đạo diễn sân khấu, là người Thày đào tạo các thế hệ diễn viên…
Lộng Chương (bên phải cùng, hàng sau)
tiếp Đạo diễn Tiệp Khắc DevorJack
Cuộc đời sáng tác của Lộng Chương thật đa dạng, phong
phú. Nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, ông đã viết nhiều thể loại kịch với hàng trăm vở ngắn dài, có 9 tập
thơ và ca dao, 5 tập phóng sự - ký sự kháng chiến, nhiều bài tiểu luận phê bình
sân khấu. Nghỉ hưu, ông lại cần mẫn viết hồi ký “Sân khấu đời tôi” hơn ngàn
trang với nhiểu tư liệu quý, gắn liền với sự phát triển của nền sân khấu cách
mạng. Tuy sáng tác nhiều thể loại nhưng viết kịch vẫn là sở trường, là công
việc tâm huyết nhất của ông. Thời kháng Pháp có những vở đáng kể như: Lý Thới (1948), Du kích thôn Đồi (1952), Chiến
đấu trong lòng địch (1954) - tác phẩm được Giải thưởng Văn học 1954-1955
của Hội Văn nghệ Việt Nam. Thủ đô giải phóng, Lộng Chương đã góp công sức không
nhỏ xây dựng các đoàn nghệ thuật, như Đoàn Chèo Cổ Phong (Chèo Hà Tây sau này),
rồi Chèo Nam Hà, Kịch Hà Tây, Kịch Thanh Hóa, đặc biệt là hai đoàn Kịch Thanh
Niên và Công Nhân của Hà Nội - cái nôi dinh dưỡng cho những tài năng sau này
như Trọng Khôi, Doãn Hoàng Giang, Đoàn Dũng, Hà Văn Trọng, Mỹ Dung, Trần Hạnh,
Dương Quảng, Trịnh Mai, Hoàng Quân Tạo, Ngọc Hiền, Bích Lân. v.v.
Các nghệ sĩ Việt Nam với Nhà hài kịch Nga Mackêônôp
và Nhà thơ Nga Only (Lộng Chương thứ ba từ phải sang, 1976)
Thời kỳ này cũng bộc lộ tài năng viết kịch của ông. Sẵn
tố chất người cán bộ cách mạng, Lộng Chương luôn luôn viết những vở kịch mang
tính thời sự nóng bỏng nhất. Những kịch phẩm như: Chặn tay chúng lại (viết ngay trong đêm nghe tin Mỹ ngụy gây vụ
thảm sát Phú Lợi, Đoàn kịch Thanh Niên dựng diễn ngay trên đường phố Tràng
Tiền), rồi Đổi đầu heo, Dì Mai, Bầu bán, Người nữ tự vệ áo trắng… mang tính chiến
đấu cao, đúng chức năng “mũi xung kích hiện đại” của sân khấu. Giai đoạn này,
ông và nhà báo Xích Điểu là hai tác giả thường xuyên viết kịch truyền thanh cho
Đài Tiếng nói Việt Nam .
Những họat kịch hài hước, chấm biếm chua cay, đả kích mạnh mẽ quân thù xâm lược
và bè lũ tay sai làm nức lòng quân dân ta, làm phía bên kia điên đầu. Phẩm chất
ấy của Nhà viết kịch nổi tiếng thực đáng trân trọng. Ngoài những vở phục vụ kịp
thời nhiệm vụ chính trị, Lộng Chương cần mẫn viết nhiều tác phẩm sân khấu cho
các đoàn kịch nghệ thuật miền Bắc dàn dựng, đáng kể như: Dũng sĩ Rạch Gầm, A Nàng, Tình sử Loa Thành, Đôi ngọc lưu ly, Cửa mở
hé, Án tử hình, Cánh chim luân lạc.v.v.
Viết nhiều, riêng cho sân khấu có tới 81 kịch bản dài
ngắn, nhưng một kịch phẩm làm nên Lộng Chương - Kịch tác gia Hài kịch, đó là vở
Quẫn. Có thể nói kịch bản này đã huy
động vốn tri thức trầm tích trong ông suốt mấy chục năm qua: từ những năm 30 -
40 tiếp thụ tinh hoa của các nhà văn Pháp như Plốttơ, Môlie với những trước tác
Hài kịch nổi tiếng; chịu ảnh hưởng của những vở Hài kịch cùng thời kỳ ấy của:
Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Tương Huyền, Nam Xương…; và không
thể không kể tới sự nhuần thấm chất hài trong Chèo, Tuồng cổ truyền dân tộc.
Độc đáo hơn cả (cũng là rất riêng của Lộng Chương), hầu hết các nhân vật chính
trong Quẫn đều được ông hư cấu từ
nguyên mẫu những người thân trong gia đình, họ tộc. Tất cả họ đang sống, đang
bươn chải, tính toan trong thời buổi cả miền Bắc, nhất là Hà Nội và các thành
phố lớn, phải đối mặt với công cuộc cải tạo tư bản tư doanh - bước chuyển đổi
kinh tế xã hội cơ bản của những năm đầu thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Chất liệu
kịch bản tươi rói hiện thực đời sống; các nhân vật tính cách sắc sảo, đài các,
điêu ngoa, vật vã, rất gần với thế giới thường nhật, không hề xa lạ với bất kỳ
ai, đã tạo nên sức hấp dẫn và hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm này. Kịch phẩm
lại được Nhà đạo diễn bậc thầy Trần Hoạt dàn dựng cho lớp diễn viên hàng đầu
của Đoàn kịch Trung ương như: Song Kim (vai cụ Đại Lợi), Chu Xuân Hoan (vai ông
Đại Cát), Thu Hà (bà Đại Cát), Vũ Đình Hải (Ba Lường), Trần Tiến, Vĩnh Phúc
(vai hàng xách)… Đêm diễn nào khán giả cũng đông chật nhà hát; từng trận cười
thâm thúy khi thì vỡ òa, lúc thì nhỏ nhẹ; rời nhà hát trên đường về nhà vẫn gằn
gặn tiếng cười. Tiếng cười giã từ quá khứ để khoát đạt bước vào thời kỳ mới.
Thật khó tìm trong nền Kịch Việt Nam một vở Hài kịch đích thực như Quẫn, và Lộng Chương là Kịch tác gia,
vừa là cầu nối vừa là người khởi sự cho bộ môn này “sống lại” trên Kịch trường
nước nhà. Ở Kịch phẩm Quẫn, tác giả
đã khéo léo sử dụng yếu tố hài trong Chèo và những thủ pháp của văn châm biếm,
hài hước như so sánh, ẩn dụ, ngoa dụ, hoán dụ, cách chơi chữ trong lời thoại.
Sức mạnh của Quẫn chính là “…một sự
phẫu thuật, làm hết ung nhọt trong tâm hồn con người” - lời Azit Nêxin, nhà văn
châm biếm nổi tiếng thế giới người Thổ Nhĩ kỳ. Quẫn của Lộng Chương đã đạt được yêu cầu đó. Vở diễn cũng nêu một
luận điểm mỹ học: Hài kịch không đơn thuần chỉ là tiếng cười. Có nghĩa là, cái
hài và cái cười tuy thống nhất nhưng không đồng nhất. Cái hài mang tính bản
chất hơn cái cười. Vì thế nhân vật Hài kịch phải có số phận, có tính cách rõ
rệt, và nhất thiết phải nằm trong hoàn cảnh, tình huống cụ thể nào đó. Và tác
giả Hài kịch cần phải là những người lịch lãm, đã từng trải đau khổ, đắng cay
cuộc đời, phải yêu cuộc sống , yêu con người đến vô cùng mới có thể phẫn nộ,
căm ghét những cái lố bịch ở đời, những kẻ đạo đức giả, những tên điêu trác…
Giá trị của Quẫn đã tạo cho vở diễn
có tuổi thọ nhiều ngàn đêm, cho các nghệ sĩ thăng hoa tài năng, một dấu son của
nền sân khấu hiện đại, xứng đáng là tác phẩm xuất sắc nằm trong cụm tác phẩm
được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho tác giả Lộng Chương.
Lông Chương, bút danh, nghệ danh ấy phải chăng là đích thực
phong cách của nhà nghệ sĩ - văn chương trào lộng. Có lẽ vì thế mà trong buổi
mừng ông 60 tuổi (1978) nhà nghiên cứu chèo Hà Văn Cầu đã tặng người Thày của
mình đôi câu đối: Trọn một đời lấy bút làm gươm, nhếch mép nên câu trào Lộng / Trải mấy
độ coi trò như bạn, dắt tay theo nghiệp văn Chương.
Sau hơn một nửa thế kỷ vắt mình cho sự nghiệp sân khấu
nước nhà, 13 giờ 54 phút ngày 26 tháng 6 năm 2003, Nghệ sĩ - Nhà viết kịch Lộng
Chương đã trút hơi thở cuối cùng, để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho hàng triệu
công chúng hằng mến mộ ông.
Nhưng, ở cõi hư huyền, chắc ông đang mỉm cười!...
Thày Lộng Chương và các học trò, từ trái sang: Đức Tuyên, Bảo Minh, Đào Mùi (diễn viên Đoàn kịch Công Nhân Hà Nội) |
Hà Nội, đêm mưa 29/6/2003
_____________________
(*) Báo Văn
nghệ số 27 - 5.7.2003; Sách “Lộng Chương trên mọi nẻo kịch
trường”, Nxb Sân khấu, 2003; Sách “Lộng Chương trong trái tim bè bạn”, Nxb Hội Nhà văn, 2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét